Việc Dạy Và Học Tiếng Anh Ở Việt Nam / Top 13 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 4/2023 # Top View | Theolympiashools.edu.vn

Nghịch Lý Trong Việc Dạy Và Học Tiếng Anh Ở Việt Nam

(4450 chữ, 16 phút đọc)

1. Nghịch lý trong việc dạy và học tiếng Anh

Trước tiên phải nói đến cách dạy sai. Tiếng Anh là một ngôn ngữ tương đối dễ học so với những ngôn ngữ châu Âu khác vì tính logic của nó rất cao. Tuy nhiên, tính logic này không có nghĩa là chúng ta có thể công thức hóa được ngôn ngữ như đối với toán lý hóa. Việc công thức hóa tiếng Anh và học thuộc lòng thay vì dạy cho học sinh kỹ năng suy luận logic đã khiến cho biết bao nhiêu thế hệ học thuộc lòng và nhai lại như những con vẹt nhưng đến khi cần động não tư duy kết nối những kiến thức đã học thì không ai làm được. Chỉ cần hỏi một câu hỏi lệch ra bên ngoài một chút là coi như thua. Ngay cả các giáo viên dạy tiếng Anh cũng vậy, họ đơn giản là một cái máy học thuộc bài rồi phát lại trên lớp bắt học trò học thuộc theo và lặp lại.

Thứ hai, việc đặt mục tiêu học CẤP TỐC một ngoại ngữ là sai lầm nghiêm trọng. Trên đời này không có chuyện gì có thể học cấp tốc mà có thể sử dụng thành thạo. Tiếng Anh cũng vậy, đây là một ngôn ngữ có chiều sâu và tính khoa học cao. Những trung tâm hay trường học trong suốt bao nhiêu năm nay đánh vào tâm lý lười động não và muốn đạt được kết quả nhanh nhất của người học mà đưa ra chiêu bài học cấp tốc giao tiếp, cấp tốc để lấy bằng hoặc một phương pháp tốn công sức nhất. Tất cả đều là mánh khóe chiêu trò lừa gạt vì người nào học hành nghiêm túc đều hiểu rằng không có cách nào cấp tốc hoặc những mẹo vặt để thành công mà chỉ có KIÊN NHẪN và KHỔ LUYỆN. Hãy nghĩ tới lúc bé các bạn tập nói tiếng mẹ đẻ như thế nào. Phải mất vài năm nói đớt nói ngọng mới có thể phát âm đúng và 12 năm phổ thông vẫn có người viết một câu tiếng Việt cho ra hồn cũng không xong thì lấy đâu ra chuyện học CẤP TỐC mà THÔNG THẠO một ngôn ngữ mới. Nếu không nằm mơ thì cũng là hoang tưởng.

Thứ ba là tâm lý người học ngại khổ ngại cực, ỷ lại dựa dẫm vào giáo viên và sách giáo khoa, thích được học mẹo nhưng không thích động não suy nghĩ. Thích có bằng cấp nhưng không thích học thực lực để có thể sử dụng được và không có động lực tự học. Chính vì vậy học đâu lại quên đấy, tốn bao nhiêu tiền nhưng bản thân không tự nỗ lực thì cũng bằng thừa.

Những bạn nào không chịu học tiếng Anh cho đàng hoàng thì sau này đừng hối hận khi bị cưỡng bức học tiếng Trung Quốc như quốc ngữ!

2. Những sai lầm và ngụy biện thường gặp đối với những người thất bại trong việc học tiếng Anh

Những người thất bại trong việc học tiếng Anh sẽ mắc phải những sai lầm và ngụy biện đặc trưng khiến cho việc học của mình không có hiệu quả. Sở dĩ tôi gọi là sai lầm và ngụy biện vì nhiều người không biết cách học nên đổ nhiều công sức vẫn không có kết quả, còn ngụy biện là nhiều người biết cách học đó là sai nhưng vẫn dùng nó để chống chế cho việc thất bại của mình rằng tôi cũng học hành đàng hoàng lắm chứ, đừng trách tôi. Cho dù là ngụy biện hay là sai lầm thì kết quả cũng đều như nhau là thất bại. Chỉ có việc nhìn thẳng vào sự thật và thay đổi thì mới có sự tiến bộ và thành công.

1. Thời gian là quan trọng nhưng không phải là tất cả

Thứ nhất, học qua loa thì tất nhiên không có kết quả nhưng liệu việc bỏ quá nhiều thời gian để học thì sẽ thành công. Điều này không đúng vì còn tùy thuộc bạn học như thế nào. Nếu ngay từ đầu bạn đã sai nhưng mà bạn cứ nghĩ đó là đúng thì bạn càng tập nhiều bạn càng quen với lỗi sai đó tới khi nó nhập vào tâm thì bạn sẽ rất khó sửa lại.

Thứ hai, nếu bạn chỉ học thụ động là làm những bài tập trắc nghiệm thì có làm hết mấy chục cuốn trắc nghiệm trình độ tiếng Anh của bạn cũng chỉ dừng lại ở chỗ là làm đúng câu hỏi trắc nghiệm chứ không viết hay nói được.

Thứ ba, ai là người sẽ thẩm định sự tiến bộ của bạn, bằng cách nào và sẽ hướng dẫn bạn nâng cao trình độ như thế nào? Ai sẽ cho bạn biết là cách bạn đang học là đúng hay sai, và liệu người đó có sửa đúng cho bạn hay lại chỉ cho bạn một cách sai khác? Nếu không có người hướng dẫn và phương pháp hướng dẫn tốt thì bạn sẽ vẫn dậm chân tại chỗ.

Thứ tư, bạn phân bổ thời gian thế nào? Nếu bạn dồn 4 tiếng một ngày thì chắc chắn hiệu quả không có vì đầu óc chúng ta bị làm việc quá tải khả năng tiếp thu sẽ kém đi. Một tiếng đồng hồ nếu được sử dụng đúng cách sẽ mang lại hiệu quả cao hơn là 4 tiếng dùng sai.

2. Tự học tiếng Anh như thế nào cho tốt?

Những người hỏi tôi câu này đều có chung một đặc điểm, ngại đến trường, thiếu kiên nhẫn và không thích học bài bản. “Tự học” là một từ dùng sai về nghĩa vì bản thân bạn học bất cứ một điều gì, có thầy dạy hay không bạn vẫn là “tự học” vì không ai có thể học giùm bạn. Trong tiếng Anh, người ta không dùng cụm từ “tự học” mà gọi là “tự dạy cho mình”. Ví dụ: tiếng Việt chúng ta nói “tôi tự học tiếng Anh” hay “tự học đàn” thì tiếng Anh sẽ nói là “I taught myself English” và “I taught myself to play guitar”. Nếu bạn hiểu đúng nghĩa thì vấn đề sáng tỏ hơn rất nhiều. Khi bạn nói bạn tự học, bạn chỉ thấy rằng mình đổ rất nhiều công sức học nhưng không thấy kết quả chính vì thế bạn đâm nản. Khi bạn nói bạn tự dạy cho mình, bạn phải nhận định lại trình độ của mình như thế nào. Nếu trình độ bạn quá thấp và phương pháp sư phạm thích hợp không có thì bạn không thể tự dạy mình được. Đó là lý do tại sao bạn mua sách vở về đọc rồi mày mò nhưng không có kết quả.

3. Học bao lâu thì giỏi?

Nhiều bạn đến học hỏi với tôi với câu hỏi thường trực, học mấy tháng thì có thể nói được, viết được, nghe được hay thi lấy bằng nọ bằng kia được. Tôi thực sự rất dị ứng với những câu hỏi kiểu đó vì nó chứng tỏ tư duy của người học vô cùng ăn xổi ở thì, chỉ muốn chụp giật cho nhanh, bình thường khi có thời gian thì không chịu học hành cho đàng hoàng, đến khi cần thì cuống lên tìm một chỗ nào đó muốn học với thời gian ngắn nhất để đạt kết quả cao nhất. Đó là hoang tưởng.

Tôi học tiếng Anh từ 4 tuổi, từng làm phó chủ nhiệm câu lạc bộ Anh văn NVHTN từ năm lớp 12, sang Mỹ học 6 năm chuyên ngành sư phạm Anh, dạy tiếng Anh ở Mỹ. Tôi sử dụng tiếng Anh để nói và viết với thời lượng tương đương với tiếng Việt nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng thế nào gọi là giỏi vì càng học càng thấy mình còn quá nhiều cái chưa biết. Nếu bạn chỉ dựa vào thời gian 1 tiếng rưỡi một ngày trên lớp và học trong vòng vài tháng mà giỏi thì cũng giống như bạn cầm số tiền mua xe đạp đòi mua xe Mercedes vậy.

4. Học thuộc lòng công thức và rất chuộng mẹo vặt

Trên đời tôi rất ghét những cách học mẹo nhất là những cách học mẹo của người Việt Nam đối với một ngoại ngữ. Vì sao ư? Vì người Việt mình có tính khôn lỏi nhưng rất hời hợt chỉ nhìn bề mặt vấn đề một cách qua loa rồi chế ra những mẹo vặt linh tinh không có tính khoa học nhưng lại cho đó là quy tắc học bắt học sinh học thuộc lòng. Nên nhớ một quy luật chỉ được công nhận khi nó đúng với 100% các ví dụ cụ thể, chỉ cần 1 ví dụ sai thì quy luật đó cũng không được công nhận. Các mẹo vặt về bản chất là không dựa trên phương pháp suy luận khoa học mà chỉ là sự lắp ghép tùy tiện mà bỏ qua rất nhiều yếu tố quan trọng như sự khác biệt ngôn ngữ. Nhưng người học Việt Nam lại cực kì chuộng dạy và học những mánh khỏe kiểu này vì hai lý do: 1. Nó dễ nhớ chỉ cần thuộc lòng không cần động não. 2. Người học không có thói quen phản biện và suy luận logic và luôn nghe lời thầy cô một cách mù quáng nên những gì giáo viên nói mặc nhiên là đúng. Tôi đã từng vạch ra rất nhiều lỗi sai trong các mẹo học tiếng Anh khiến nhiều giáo viên lâu năm té ngửa vì trước giờ mình đã quá khinh suất trong vấn đề giảng dạy.

6. Lười áp dụng thực tế

Có một nghịch lý rất buồn cười là những bạn học giao tiếp đến khi có cơ hội giao tiếp thì lại kiếm hết cớ này cớ khác để thoái thác. Và khi buộc phải nói thì không hề áp dụng một tí gì những quy tắc phát âm ngữ điệu đã được học mà cứ đọc theo kiểu cũ trước khi đi học. Những bạn học viết thì khi giao cho bài viết về nhà làm thường xuất hiện với nụ cười cầu tài mà tôi thường nói thẳng là “nụ cười vô duyên nhất thế giới” bảo rằng em quên viết, em bận hoặc viết một bài hết sức cẩu thả sai những lỗi chính tả và ngữ pháp cơ bản nhất. Tôi hay nói với học trò rằng: “Các bạn có một tài năng mà tôi rất khâm phục là sai đi sai lại những điểm trọng tâm mà tôi đã dạy rất kỹ và nhấn mạnh hàng trăm lần là không được sai nữa.” Tủ sách tiếng Anh tôi chọn lọc với hàng trăm đầu sách đủ thể loại và đủ trình độ rất ít người quan tâm đụng vào nhưng miệng vẫn cứ xin thầy cho thêm bài tập về nhà làm. Tôi nói luôn là đừng mong tôi cho thêm bài tập về nhà làm vì tôi không muốn tạo cho các bạn tính ỷ lại vào giáo viên. Nếu giáo viên cho bài tập thì làm còn không thì tự mình không tìm được trong khi bây giờ các phương tiện học tiếng Anh phải nói là thừa mứa. Chỉ một kênh youtube thôi các bạn học cả đời còn không hết thì tại sao phải chờ tôi cho thêm bài tập về nhà. Tôi chỉ có thể hướng dẫn gợi ý những nguồn cần thiết còn bạn làm gì với nó là chuyện của các bạn.

Hi vọng các bạn học viên của tôi đọc kĩ bài này và suy nghĩ những gì tôi vẫn thường nói với các bạn trên lớp để học tốt hơn vì tương lai của bản thân mình. Mục đích dạy tiếng Anh lớn nhất của tôi là hướng dẫn cho các bạn cách học đúng để các bạn sau khi học tôi có thể tự học một mình chứ không quay lại học hoặc tốn tiền đi tìm một nơi khác học lại những kiến thức đã cũ lặp đi lặp lại một cái vòng lẩn quẩn không lối thoát.

3. Cách dạy tiếng Anh, sai ngay từ đầu!

Năm ngoái có ai đó gửi cho tôi một video clip các giáo viên tiếng Anh ở một trường trung học miền bắc đã dạy các học sinh phát âm tiếng Anh bằng cách kết hợp những tiếng Anh với quan họ Bắc Ninh, tôi thực sự quá sợ với sáng kiến đó.

Tôi có một người dì ruột trong suốt thập niên 80 dạy tiếng Nga ở trường cấp 2. Đùng một phát vào thập niên 90 tiếng Nga bị loại khỏi chương trình học chính quy do sự sụp đổ của Liên Xô cũ và tiếng Anh được đón chào trở lại sau mười mấy năm bị hắt hủi. Dì tôi được chỉ định đào tạo tiếng Anh cấp tốc để chuyển sang dạy tiếng Anh trong vòng sáu tháng. Không phải chỉ một mình dì tôi mà hầu hết các giáo viên tiếng Nga và tiếng Pháp khác cũng phải được đào tạo cấp tốc chuyển qua tiếng Anh nếu không muốn bị mất việc làm. Không cần phải giải thích nhiều các bạn cũng có thể hình dung ra rằng với sự đào tạo mì ăn liền như thế thì chất lượng đàng hoàng làm sao có được. Dì tôi lúc nhỏ học tiếng Pháp sau khi đi làm thì học tiếng Nga nên có thể nói là có năng khiếu về ngôn ngữ và cũng siêng năng nên việc học tiếng Anh cấp tốc để đi dạy cũng có thể gọi là ổn. Nhưng những vấn đề như phát âm thì không thể nào khắc phục được với nhiều lỗi sai trầm trọng. Ở Sài Gòn còn như vậy, thử hỏi các giáo viên ở tỉnh hoặc vùng sâu vùng xa thì trình độ còn như thế nào nữa. Và tất nhiên hậu quả thì học sinh lãnh đủ.

Không phải chỉ có những giáo viên thế hệ trước không được đào tạo bài bản. Thế hệ sinh viên sư phạm và chuyên ngành Anh ngữ sau này cũng hề khá hơn. Tôi đã từng dạy rất nhiều bạn sinh viên khoa sư phạm Anh nhưng tiếng Anh rất tệ và rất lười, những lỗi phát âm hoặc lỗi ngữ pháp cơ bản nhất cũng không buồn sửa mặc dù được nhắc rất nhiều lần. Các bạn không hề hứng thú với tiếng Anh và cũng không thích nghề đi dạy, chẳng qua điểm đủ xét tuyển vào ngành nào thì học ngành đó thôi. Có một bạn sinh viên năm 3 trường đại học khoa học xã hội và nhân văn chuyên khoa Anh khi tôi bảo giới thiệu về bản thân thì đọc như trả bài thuộc lòng và đến khi nói đến tên trường thì không biết nói như thế nào bằng tiếng Anh mặc dù suốt 3 năm trời ngày nào bạn ấy cũng dắt xe đi ra đi vào cái cổng trường to tổ bố có tên trường bằng hai thứ tiếng Anh-Việt. Và bạn ấy đổ lỗi là do cô chưa dạy nên không biết. Nghĩ đến những sinh viên không trình độ, không kiến thức, cả đam mê hay ý thức tự học cũng không chuẩn bị ra trường làm thầy làm cô, tôi không khỏi rùng mình sợ hãi vì đối với tôi làm thầy mà dạy sai dạy tồi là một tội ác khó có thể tha thứ. Bác sĩ tay nghề kém chỉ vài bệnh nhân chết nhưng giáo viên không có kiến thức thì hết thế hệ học sinh này đến thế hệ học sinh sẽ bị dạy sai. Và trong số những học sinh đó rồi sẽ có người sau này ra làm giáo viên tiếp tục gieo rắc cái sai đó cho những thế hệ tiếp theo. Đó không phải tội ác là gì?

Chất lượng kém trong việc giảng dạy tiếng Anh trong trường phổ thông cộng với đòi hỏi không tương xứng với chất lượng giảng dạy của chương trình học khiến cha mẹ tìm đủ mọi cách cho con học tăng cường tiếng Anh nếu có điều kiện. Nếu không tin tưởng vào năng lực của các thầy cô trong trường thì họ sẽ mang con đến các trung tâm Anh ngữ. Sinh viên sau một thời gian bỏ rơi tiếng Anh giật mình khi yêu cầu ra trường đòi hỏi bằng TOEIC hoặc IELTS cũng tìm đến cách trung tâm ngoại ngữ để học cấp tốc với hi vọng lấy được cái bằng nộp cho đủ thủ tục. Và những gia đình khá giả có con muốn cho đi du học cũng chọn một trung tâm ngoại ngữ nào đấy để gửi con vào học để thi lấy bằng làm hồ sơ. Nói chung là cấp tốc được thì càng tốt. Các trung tâm ngoại ngữ thường hút học viên bằng hai chiêu trò luôn hiệu quả là có giáo viên nước ngoài và các khóa học cấp tốc. Giáo viên nước ngoài cũng năm bảy loại nhưng bảo đảm những giáo viên bản ngữ Anh, Mỹ, Úc có trình độ sư phạm ở Việt Nam chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Có một thời gian các trung tâm ngoại ngữ không danh không tiếng thuê dân Nga, Pháp thậm chí Nam Tư ba lô sang dạy tiếng Anh bất chấp trình độ miễn sao mắt xanh tóc vàng được. Tôi đã làm việc với rất nhiều giáo viên nước ngoài vừa không có trình độ vừa rất kém về tư cách thậm chí có thể nói là biến thái bệnh hoạn. Một lão già người Mỹ có thói quen tiểu tiện vào bồn rửa mặt trong nhà vệ sinh của các giáo viên khác đến khi dùng camera ghi hình quay lại thì đập bàn văng tục hăm dọa đòi đánh. Một lão khác thì cứ đưa bài cho học viên làm còn mình thì ngồi đọc sách cho tới hết giờ, bài vở không bao giờ chịu chuẩn bị trước khi lên lớp. Còn các lớp luyện cấp tốc thì sao? Bất cứ ai hiểu chuyện cũng đều hiểu rằng không có cách gì để biến không thành có trong một thời gian cực ngắn nhất là kiến thức. Nhưng trên đời này có cầu thì ắt sẽ có cung. Ngày nào vẫn còn những kẻ lười biếng thích ăn xổi ở thì đến lớp để mong được chỉ mánh khóe thi đậu thì những chương trình cấp tốc như vậy vẫn ăn nên làm ra.

Đừng tưởng giáo viên Việt Nam dạy trung tâm sẽ khá hơn giáo viên dạy trường nhà nước. Tôi không vơ đũa cả nắm vì tôi biết có rất nhiều giáo viên lớn tuổi dạy trung tâm rất tận tâm và yêu nghề với kiến thức sư phạm tốt được học trò yêu thích. Nhưng phần lớn họ vẫn mắc phải hai lỗi chính là phát âm và cách giảng bài quá thiên về công thức. Còn các giáo viên trẻ thì chất lượng khó nói được. Rất nhiều bạn trẻ nghĩ đơn giản nếu mình không giỏi làm những chuyện khác nói thẳng ra là học xong đại học thất nghiệp thì đi học một khóa đào tạo giáo viên cấp tốc TESOL ra đi xin dạy tiếng Anh ở trung tâm là an toàn nhất, vừa có lương cao, vừa đỡ phải cạnh tranh còn mang cái mác giáo viên ngoại ngữ khá oai. Trong giai đoạn 2008-2011, tôi đào tạo hơn một nửa số giáo viên trẻ dạy ở các trường Không gian và dạy TESOL và được mệnh danh là sát thủ vì tôi đánh rớt không thương tiếc những bạn không đủ tiêu chuẩn và không đủ tư cách. Vì điều này mà tôi gặp khá nhiều rắc rối với bộ phận hành chính và marketing vì thử hỏi nếu rớt nhiều như thế ai dám đăng kí học. Nhưng tôi thà làm vậy còn hơn là kí bằng cho một người không đủ trình độ ra đi dạy biết chắc rằng họ không hề có ý thức tự học và lòng yêu nghề.

Tác giả: Vien Huynh

*Featured Image: sasint

📌 Ủng hộ tác giả và Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/donateTHDP 📌 Tham gia viết bài cùng Triết Học Đường Phố ➡️ http://bit.ly/2KTJCN2

3 Thách Thức Trong Dạy Và Học Tiếng Anh Ở Việt Nam

Nếu cách đây 20-30 năm, thứ duy nhất chúng ta nhập khẩu về để dạy tiếng Anh là sách và một số băng đĩa, thì giờ đây trẻ em được tiếp xúc với báo đài, Internet, TV… hoàn toàn bằng tiếng Anh. Cách dạy và học tiếng Anh cần được đổi mới.

Bố tôi dành cả đời để đi dạy tiếng Anh. Tôi cũng có thể được coi là “nòi” tiếng Anh khi 6 tuổi đã bập bẹ “a book, a ball, a box, a cup”, một phần nhờ may mắn khi bố tôi là một trong những người đầu tiên sau chiến tranh được cử đi học tại một nước tư bản. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, có được cuốn sách tiếng Anh cho ra hồn là “khá giả” lắm rồi. Chương trình học hồi đó dựa chủ yếu vào ngữ pháp cũng là dễ hiểu. Vì không dạy ngữ pháp thì có gì mà dạy, bản thân giáo viên tiếng Anh cũng không thể tiếp xúc với cái gọi là tiếng Anh chuẩn.

Hệ thống đào tạo tiếng Anh của Việt Nam, từ thời điểm đó, hoặc thậm chí vài chục năm trước đó, dựa chủ yếu vào học ngữ pháp, có lẽ giống như mục tiêu “xóa mù” tiếng Anh, hơn là để sử dụng và hội nhập.

Mọi thứ đang thay đổi chóng mặt. Nhưng dường như việc dạy tiếng Anh trong giáo dục Việt Nam đang lễ mễ chạy đằng sau mà vẫn bị hụt hơi. Không nói giáo viên tiểu học, bản thân giảng viên tiếng Anh đại học cũng ít người có khả năng phát âm chuẩn và hay.

Ngay ở những trường danh tiếng có lượng sinh viên đạt 8.0 IELTS hay 100 TOEFL iBT trở lên tương đối phổ biến, chất lượng giáo viên tiếng Anh cũng luôn là dấu hỏi lớn. Nếu chuẩn hóa chất lượng giáo viên thông qua điểm TOEFL iBT hoặc IELTS, tôi tin chắc số lượng không nhỏ giáo viên đại học có điểm thấp, thậm chí rất thấp. Tất nhiên, một tỷ lệ không nhỏ giáo viên cũng sẽ có điểm cao và rất cao.

Do đội ngũ giáo viên tiếng Anh thiếu cả về chất và lượng, việc đổi mới chương trình là vấn đề nan giải với hệ thống đào tạo Việt Nam. Lý do là giáo viên không đủ chất lượng thì chương trình tốt cũng khó có thể vận hành hiệu quả. Thậm chí, nếu chương trình giáo dục có thay đổi theo hướng đào tạo phát âm thay vì ngữ pháp đi chăng nữa, thì phần không nhỏ các thầy cô cũng không đủ trình độ và bản lĩnh để đánh giá chính xác học viên.

Thực tế là với ngôn ngữ, càng bắt đầu sớm thì khả năng hấp thụ càng tốt. Ở cùng điểm xuất phát, học sinh sẽ học tiếng Anh nhanh hơn giáo viên. Liệu các thầy cô có bối rối nếu học viên còn phát âm… chuẩn hơn cô? Một chi tiết nhỏ mà không nhỏ, đó là rất ít giáo viên ở Việt Nam chịu thừa nhận mình kém hơn học sinh/sinh viên của mình, ít ra ở lĩnh vực họ giảng dạy.

Một rào cản nữa cho việc chuyển hướng đào tạo tiếng Anh, đó là đánh giá chất lượng học sinh. Với lượng học sinh khổng lồ như hiện nay, việc giảng dạy chú trọng phát âm và giao tiếp (thực tiễn) thay vì ngữ pháp sẽ đặt ra thử thách lớn cho toàn hệ thống: đánh giá bằng cách nào. Với nguồn lực mỏng như hiện tại, số lượng giáo viên đủ chuyên môn, năng lực để đánh giá khả năng phát âm/giao tiếp của học viên nắm phần thiểu số (tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị), việc đánh giá học viên qua khả năng phát âm/giao tiếp là khó khăn hơn rất nhiều.

Hệ thống của chúng ta ở thì hiện tại phù hợp hơn cho việc ra đề trên giấy, chấm trên giấy. Với đáp án có sẵn, thậm chí một người chẳng biết gì về tiếng Anh cũng có thể chấm điểm sinh viên/học sinh thông qua bài trắc nghiệm tiếng Anh… Như thế dễ hơn rất nhiều.

Trước thực tế trên, thay đổi là tất yếu. Bởi nếu hệ thống giáo dục không thay đổi, thị trường sẽ tự làm việc đó. Học sinh, sinh viên sẽ lãng phí rất nhiều thời gian học tiếng Anh ở nhà trường, nhưng không sử dụng được. Trong khi đó, một bộ phận lớn phải ra ngoài để học lại tiếng Anh nhằm thích nghi với yêu cầu của thị trường. Đây là sự lãng phí nguồn lực vô cùng lớn của xã hội và cần được thay đổi.

Thay đổi đầu tiên, thiết nghĩ, phải bắt đầu từ bản thân giáo viên tiếng Anh. Nếu họ phát âm chuẩn, giao tiếp tốt, họ sẽ đào tạo được học sinh, sinh viên phát âm tốt và giao tiếp được. Để làm được điều này, cần chặt chẽ hơn nữa về yêu cầu chuẩn giáo viên tiếng Anh (ít nhất tương đương 90 TOEFL iBT hoặc 7.0 IELTS), đi kèm với lộ trình và hỗ trợ cần thiết từ phía nhà trường và Bộ Giáo dục.

Sau đó, việc giảng dạy tiếng Anh với nền tảng là phát âm nên được thực hiện từng bước ở các trường điểm tại các khu vực thành phố lớn, sau đó lan tỏa ra toàn hệ thống, phối hợp cùng với việc nâng cao chất lượng giáo viên tại các trường đại học, trung học và tiểu học.

Tiếp theo, dựa trên các giáo trình tại các trường trọng điểm, kết hợp với các trung tâm tiếng Anh có kinh nghiệm tại các thành phố lớn, Bộ Giáo dục có thể đưa ra chương trình khung, lộ trình học và phương pháp đánh giá, sau đó thực hiện thí điểm tại các thành phố lớn.

Nguyễn Xuân Quang

Hỗ Trợ Dạy Và Học Tiếng Việt Cho Người Việt Nam Ở Nước Ngoài

Bắt đầu từ tháng 11/2008, các “chương trình dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài” do Đài TNVN xây dựng sẽ được phát thử nghiệm.

C ộng đồng người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài hiện có hơn 3,5 triệu người. Nhu cầu được học tập và trau dồi ngôn nhữ tiếng Việt của bà con là rất lớn.

Để đáp ứng tình cảm và nguyện vọng của bà con Việt kiều, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Hỗ trợ việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài”. Chính phủ giao cho Bộ giáo dục đào tạo tổ chức biên soạn, thẩm định và phê duyệt hai chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm: Chương trình dạy tiếng Việt cho thanh thiếu niên và Chương trình dạy tiếng Việt cho người lớn. Trên cơ sở hai chương trình này, Bộ giáo dục đào tạo cũng đã tập hợp các chuyên gia biên soạn hai bộ sách “Tiếng Việt vui” và “Quê Việt”.

Bắt đầu từ tháng 11/2008, các “chương trình dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài” do Đài TNVN xây dựng sẽ được phát thử nghiệm trên Chương trình dạy tiếng nước ngoài của Hệ Văn hoá- Đời sống- Khoa giáo (VOV2) vào các ngày thứ 5 và thứ 7 hàng tuần và phát trên Chương trình “Dành cho đồng bào ở xa Tổ quốc” Hệ phát thanh đối ngoại (VOV5) vào các ngày thứ 5 và chủ nhật hàng tuần. Phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam đã có buổi phỏng vấn chúng tôi Nguyễn Hữu Châu, Viện trưởng Viện khoa học giáo dục Việt Nam, Phó Trưởng Ban điều hành đề án “Hỗ trợ việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài”.

* Xin Giáo sư cho biết về sự ra đời của đề án hỗ trợ dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài?

GS Nguyễn Hữu Châu: Xuất phát từ yêu cầu của hơn 3,5 triệu người Việt Nam sống ở nước ngoài, đặc biệt ở Mỹ có tới 1,5 triệu người, rồi ở Austrlia, Pháp, cộng đồng Châu Âu và nhiều nước gần hơn như Lào, Thái Lan… Những người Việt sống xa quê hương đều mong mỏi hướng về Tổ Quốc. Những người lớn tuổi đau lòng khi thấy con em mình không biết tiếng Việt. Quên đi tiếng mẹ đẻ, có nghĩa là sẽ quên đi cội nguồn, quên đi nền văn hoá đậm đà bản sắc của dân tộc mình.

Vì thế bà con kiều bào đã đề nghị Chính phủ Việt Nam hỗ trợ, giúp dạy tiếng Việt cho con em mình. Họ cũng đã tự làm việc này, thông qua các hội Việt kiều, các tổ chức, các nhà hảo tâm, các nhà chùa, và có cả những cá nhân tự phát đứng ra làm việc này. Cũng ở nhiều nơi trên thế giới, tiếng Việt đã được đưa vào dạy trong trường học. Bộ Chính trị đã chỉ thị phải có đề án, có chương trình hành động về việc dạy tiếng Việt cho đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc và giao cho Chính Phủ thực hiện việc này. Chính Phủ đã giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng một đề án có tên gọi Hỗ trợ dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài.

* Giáo sư có thể giải thích rõ hơn ý nghĩa “hỗ trợ” của đề án?

GS Nguyễn Hữu Châu: Đề án xác định mục đích chính là hỗ trợ việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, chứ không áp đặt, không làm thay bà con việc này. Sự hỗ trợ thể hiện bằng nhiều cách: hỗ trợ tài liệu, giáo trình, phương pháp giảng dạy… Mục đích là làm sao cho tiếng Việt đến được với bà con Việt Kiều, được dạy thường xuyên, đúng với tiếng Việt của chúng ta hiện nay.

* Cho đến nay, dự án “Hỗ trợ việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài” đã được triển khai như thế nào, thưa Giáo sư?

GS Nguyễn Hữu Châu: Có 2 chương trình và hai bộ sách dành cho hai loại đối tượng: người lớn và trẻ em. Chương trình và bộ sách dành cho người lớn có tên là “Quê Việt” và Chương trình và bộ sách dành cho trẻ em có tên là “Tiếng Việt vui”.

Cách đây 3 năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cử các đoàn đi một số nước có đông người Việt sinh sống, để khảo sát, lắng nghe nguyện vọng, yêu cầu của bà con Việt kiều để xây dựng chương trình này sao cho phù hợp. Bộ sách được xây dựng theo 3 trình độ: A, B, C. Mỗi trình độ được chia thành 2 mức. Cụ thể trình độ A, có 2 mức A1, A2; trình độ B có 2 mức B1, B2; và trình độ C có 2 mức C1, C2… Đến nay, cả sách và chương trình đầu tiên, trình độ A đã hoàn thành.

Mới đây, chúng tôi đưa tài liệu này đi dạy thử ở một số nước trong đó có Mỹ thì kết quả thật bất ngờ. Người Việt ở đó đánh giá rất cao, bà con phấn khởi vì từ trước tới nay chưa thấy có một tài liệu dạy tiếng Việt nào tốt như thế cả về mặt chất lượng lẫn hình thức. Hiện Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thiết lập một mạng lưới giáo viên tham gia dự án. Chúng tôi cũng làm việc với một số trường để đưa môn tiếng Việt trở thành một môn học chính thức. Bộ đang cố gắng năm nay hoàn thành nốt sách và tài liệu ở trình độ B và C.

Năm tới, chúng ta sẽ cử giáo viên sang các nước để giúp giáo viên dạy tiếng Việt cho Việt kiều. Đề án đã và đang phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài truyền hình Việt Nam xây dựng các chương trình “Dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài” để phát sóng. Theo tôi đây là những kênh truyền thông rất quan trọng và chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả.

* Giáo sư có nhận xét như thế nào về Chương trình dạy tiếng Việt trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam?

GS. Nguyễn Hữu Châu: Mỗi phương tiện truyền thông có những thế mạnh riêng. Sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam là rất quan trọng, phạm vi rộng, đối tượng sử dụng nhiều, dễ đi vào lòng người. Tôi đã nghe một số chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài do Đài Tiếng nói Việt Nam xây dựng dựa trên các chương trình, sách và tài liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp, thấy phương pháp làm và cách tiếp cận rất phù hợp. Các chương trình này sử dụng tiếng Anh để chuyển ngữ là rất đúng, vì nhiều người Việt sống ở các nước nói tiếng Anh.

Tôi tin vòng phát sóng đầu tiên của Đài Tiếng nói Việt Nam chắc chắn sẽ nhận được những hồi âm tích cực, chúng ta sẽ lắng nghe và rút kinh nghiệm.

* Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư!

Bộ Ngoại Giao Nói Về Việc Tình Nguyện Viên Mỹ Dạy Tiếng Anh Ở Việt Nam

Hiệp định khung này được ký kết giữa Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh và Ngoại trưởng Mỹ John Kerry tại Hà Nội sáng ngày 24/5 trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Barack Obama.

Trước câu hỏi của phóng viên về ý nghĩa của Hiệp định, Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc cho biết, Chương trình Hòa bình của Mỹ là một Chương trình lớn của Chính phủ Hoa Kỳ, được Quốc hội cấp ngân sách để thực hiện việc cử tình nguyện viên tới các nước trên thế giới với một chương trình phong phú, trong đó có dạy tiếng Anh. Hiện có 141 quốc gia trên thế giới tiếp nhận chương trình này, trong đó ở khu vực có Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Myanmar…

Lễ ký kết Hiệp định khung cho phép các tình nguyện viên của Mỹ vào dạy tiếng Anh ở Việt Nam

Với Việt Nam, trong chuyến thăm chính thức Mỹ của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải năm 2005, phía Mỹ đã đề nghị Chính phủ ta cho phép tình nguyện viên vào Việt Nam. Trải qua một thời gian dài trao đổi, thương lượng, đến nay hai nước ký Hiệp định khung cho phép các tình nguyện viên của Chương trình Hòa Bình vào dạy tiếng Anh ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Theo Thứ trưởng Hà Kim Ngọc, Hiệp định khung quy định rõ các tình nguyện viên phải tuân thủ luật pháp Việt Nam, không có bất cứ hoạt động nào xâm hại an ninh Việt Nam và chịu sự quản lý của cơ quan hữu quan Việt Nam.

Để triển khai, hai bên cần tiếp tục đàm phán để đạt thỏa thuận thực thi với các nội dung cụ thể, ví dụ số lượng tình nguyện viên, chương trình giảng dạy, ở cơ sở nào…, Thứ trưởng Hà Kim Ngọc cho hay.

Trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam của ông Obama, hai nước đã đạt được một số thỏa thuận hợp tác về giáo dục-đào tạo, trong đó có việc thành lập Đại học Fulbright tại thành phố Hồ Chí Minh với mục tiêu xây dựng trường trở thành trường đại học chất lượng cao và đạt chuẩn quốc tế.

Giáo dục là một trong những lĩnh vực hợp tác nổi bật giữa hai nước. Tính đến hết tháng 1/2016, có khoảng 28.000 sinh viên, thực tập sinh Việt Nam đang theo học tại Mỹ, đứng đầu trong số các nước Đông Nam Á và đứng thứ 7 trong số các nước có nhiều sinh viên học tập tại Mỹ so với vị trí thứ 20 trong năm 2006.

Nam Hằng