Video Dạy Tiếng Việt Lớp 1 Công Nghệ Giáo Dục / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Theolympiashools.edu.vn

Tiết Dạy Tiếng Việt Công Nghệ Giáo Dục Lớp 1

Ngày 17 tháng 10 năm 2018 dưới sự chỉ đạo của BGH trường tiểu học Đức Dũng, huyện Đức Thọ tổ chức dạy chuyên đề môn TV CNGD lớp 1.

Về dự tiết chuyên đề có thầy giáo Đào Hữu Tình hiệu trưởng nhà trường; cô giáo Trần Thị Thùy Lê phó HT nhà trường, cùng tất cả các thầy giáo, cô giáo trong trường về tham dự.

Trong buổi chuyên đề thay mặt cho giáo viên dạy lớp 1, cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hải đã thể hiện 2 việc của bài: Âm /ô/.

Thông qua bài dạy của cô giáo, các đồng nghiệp được nắm sâu hơn về quy trình 4 việc. Có thể nói, dạy học theo chương trình này giáo viên với vai trò là người hướng dẫn, còn học sinh là người kiến thiết tạo nên bài học. Các em vừa được học, vừa được hoạt động nên tạo được sự hứng thú trong giờ học. Qua các hoạt động, giúp học sinh nắm bắt quy luật nhanh, chất lượng học TV của các em tốt hơn so với phương pháp học trước đây.

Với quan điểm giúp học sinh được học và học thông qua hệ thống việc làm. Bằng cách này, dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV, HS tự tạo ra “sản phẩm” học tập của mình để chiếm lĩnh tri thức và hoàn thiện kĩ năng. Đây chính là nền tảng để khi các em lên lớp 2 có phương pháp học tập tốt hơn, có kĩ năng đọc thông, viết thạo.

Kết thúc buổi chuyên đề thầy HT đã ghi nhận, đánh giá cao về kết quả tiết dạy và biểu dương kết quả thực hiện môn TV1 CGD của trường. Trong những năm qua, với sự chỉ đạo quyết liệt của BGH nhà trường, sự quyết tâm cao của các đồng chí GV dạy lớp 1 nên trường luôn đạt được kết quả như mong muốn.

Một số hình ảnh của tiết dạy

Tác giả: Phan Thị Thắm

Bản Chất Việc Dạy Học Tiếng Việt Lớp 1 Công Nghệ Giáo Dục

Tên gọi “Công nghệ giáo dục” (CGD) xuất hiện ở ViệtNamđầu những năm 90 của thế kỷ trước – tiền thân là chương trình thực nghiệm giáo dục (phổ thông) ra đời trước khi cuộc cải cách giáo dục lần thứ 3(1980) diễn ra. Việc xác định mục tiêu (hướng đi) và hiện đại hóa nền giáo dục bằng (Cách làm) Công nghệ hóa, CGD được coi là một trong những giải pháp có sức thuyết phục đối với nền giáo dục đương thời và được nhiều người mong đợi.

I. BẢN CHẤT CỦA VIỆC DẠY HỌC TIẾNG VIỆT LỚP chúng tôi Về lý luận và thực tiễn Với tư tưởng Công nghệ hóa quá trình giáo dục, CGD coi giáo dục là một quá trình sản xuất đặc biệt. Quá trình dạy học là quá trình làm ra sản phẩm là khái niệm khoa học. Người học – học sinh – là chủ thể của quá trình, tự làm nên sản phẩm (khái niệm) do thầy giáo tổ chức hướng dẫn thông qua mối quan hệ phân công hiệp tác trong “dây chuyền công nghệ”: Thầy thiết kế – Trò thi công! Điều đó làm nên ý tưởng đậm chất kỹ thuật của CGD, sau này được gọi như một khái niệm mới về mặt học thuật là Công nghệ Học (có thể gọi đó là cái lõi của công nghệ giáo dục). Bản chất của công nghệ giáo dục là tổ chức và kiểm soát quá trình dạy học bằng một Quy trình kỹ thuật được xử lý bằng giải pháp nghiệp vụ hay nghiệp vụ sư phạm.Trong dạy học, CGD quan tâm đến Cái và Cách. Thay cho mệnh đề thông thường là dạy học cái gì và dạy học như thế nào, CGD coi Cái/Cách là cốt lõi của nghiệp vụ sư phạm hiện đại. Cái vốn là của có sẵn trong xã hội đương thời. Nghiệp vụ sư phạm chỉ việc chọn lựa, nhặt ra và sắp xếp lại theo định hướng lý thuyết theo 3 nguyên tắc: Phát triển-Chuẩn mực-Tối thiểu. Cái là hình thái tồn tại của Đối tượng cũng đồng thời là Sản phẩm. Cách là quá trình chuyển hóa (chuyển vào trong), được thiết kế bằng một Quy trình kỹ thuật để làm ra Cái (sản phẩm) ở dạng kiến thức khoa học. Cách còn được hiểu là Cách dùng Cái như ở dạng kỹ năng vận dụng hoặc việc lựa chọn, sắp xếp như nói trên. Việc xử lý mối quan hệ Cái/Cách thể hiện trình độ chuyên nghiệp của nghiệp vụ sư phạm, với nhiệm vụ cốt tử là Thiết kế một hệ thống việc làm, mỗi việc là triển khai bằng một chuỗi thao tác: thao tác tư duy (hay thao tác trí óc) và thao tác vật chất (hay thao tác cơ bắp). Để thiết kế quy trình công nghệ dạy học, nhất thiết phải tìm tòi, phát hiện được cái lôgic tồn tại của khái niệm, nhờ đó xác định một cách tường minh các việc làm, thao tác rạch ròi, chính xác nhằm tạo cho việc chiếm lĩnh khái niệm một cách chủ động, dễ dàng kiểm soát được. Vì vậy năng lực thiết kế quy trình công nghệ dạy học một khái niệm hoàn toàn đồng nghĩa với năng lực tìm tòi, phát hiện con đường hình thành khái niệm đó.

CGD thực thi ý tưởng của mình trong việc xây dựng chương trình các môn học. Môn Tiếng Việt 1 là một trong những môn học đã được đời sống nhà trường chấp nhận, coi đó là thành công trong suốt thời gian các trường học 43 tỉnh, thành phố cả nước nhập CGD giai đoạn từ năm 1986 – năm 2000. Vấn đề “Cái” và “Cách” thực sự khởi xướng về mặt Kỹ thuật cho công cuộc “Đổi mới phương pháp dạy học” mà về sau được hiểu đúng đắn đầy đủ hơn là ” Đổi mới Phương pháp-Kỹ thuật dạy học“. Cái là Khái niệm khoa học, ta thường được biết tới như là Kiến thức, Kỹ năng, Thái độ-là đầu ra của Nội dung dạy học. Cách là Phương pháp-Kỹ thuật dạy học. Chúng ta có thể so sánh để thấy được sự khác biệt cả về mặt phương pháp và mặt kỹ thuật giữa ” Thầy giảng giải- Trò ghi nhớ” với một đằng là ” Thầy thiết kế-Trò thi công “.

Bộ sách tiếng Việt lớp 1- Công nghệ giáo dục

2. Về nội dung và nguyên tắc xây dựng chương trình Môn Tiếng Việt lớp chúng tôi là sự chắt lọc thành tựu từ 3 lĩnh vực khoa học (triết học, ngữ âm học, tâm lí học).CGD xác định đối tượng lĩnh hội trong môn Tiếng Việt lớp chúng tôi là Cấu tạo ngữ âm của tiếng Việt. Để chiếm lĩnh đối tượng một cách hiệu quả, CGD đã đặt đối tượng trong một môi trường thuần khiết- chân không về nghĩa. CGD đã xuất phát từ Âm (Âm thanh, âm vị) để đi đến chữ (kí mã), rồi từ chữ quay về âm ( giải mã). Dựa trên những thành quả khoa học hiện đại nhất về ngữ âm học của tác giả Đoàn Thiện Thuật (1977), CGD đã chắt lọc những vấn đề cơ bản nhất nhằm mang đến cho trẻ em không chỉ những kiến thức và kĩ năng cần thiết mà còn giúp trẻ lần đầu tiên đến trường được làm việc một cách khoa học, phát triển khả năng tối ưu của mỗi cá thể, phát triển năng lực làm việc trí óc, năng lực sử dụng tiếng Việt hiện đại một cách có văn hóa thông qua các hoạt động kích thích khả năng tư duy và khái quát hóa . Đối tượng của môn Tiếng Việt lớp chúng tôi được chiếm lĩnh theo con đường từ trừu tượng đến cụ thể, từ đơn giản đến phức tạp.Bản chất việc dạy Tiếng Việt lớp 1. CGD cho học sinh là dạy cho học sinh hệ thống khái niệm của một môn khoa học nhằm giúp các em chiếm lĩnh được tri thức ngữ âm cơ bản và hình thành các kĩ năng Nghe- Nói- Đọc- Viết tương ứng. Lần đầu tiên học sinh biết tiếng là một khối âm thanh toàn vẹn như một “khối liền” được tách ra từ lời nói. Tiếp đó, bằng phát âm, các em biết tiếng giống nhau và tiếng khác nhau hoàn toàn. Sau đó, các em phân biệt các tiếng khác nhau một phần. Đến đây, tiếng được phân tích thành các bộ phận cấu thành: phần đầu, phần vần, thanh. Trên cơ sở đó, các em biết đánh vần một tiếng theo cơ chế hai bước. Học sinh học cách phân tích tiếng tới đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, đó là âm vị (gọi tắt là âm). Qua phát âm, các em phân biệt được phụ âm, nguyên âm, xuất hiện theo thứ tự của bảng chữ cái TiếngViệt. Khi nắm được bản chất mỗi âm, các em dùng kí hiệu để ghi lại. Như vậy, con đường chiếm lĩnh đối tượng của CGD đi từ âm đến chữ. Đặc biệt,chương trình Tiếng Việt chúng tôi được xây dựng từ 3 nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc phát triển, nguyên tắc chuẩn mực, nguyên tắc tối thiểu. Ba nguyên tắc này xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống Bài học Tiếng Việt chúng tôi Nguyên tắc phát triển đòi hỏi mỗi sản phẩm của thời điểm trước( của một tiết học hay một bài học) đều có mặt trong sản phẩm tiếp sau. Vì thế mà các Bài học trong chương trình Tiếng Việt chúng tôi được xây dựng trên một trật tự tuyến tính lôgic, khoa học: Tiếng, Âm, Vần, Nguyên âm đôi.Nguyên tắc chuẩn mực được thể hiện ở tính chính xác của các khái niệm khoa học, tính chuẩn mực trong cách lựa chọn thuật ngữ để định hướng và tổ chức quá trình phát triển của học sinh.Nguyên tắc tối thiểu yêu cầu việc xác định và lựa chọn một số chất liệu tối thiểu và một số vật liệu tối thiểu cho chất liệu đó nhằm đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh lớp 1.3. Về phương pháp và kĩ thuật dạy học Công nghệ giáo dục thiết kế việc dạy học theo một quy trình logic chặt chẽ, bằng hệ thống các biện pháp KTDH với các hình thức tổ chức dạy học hợp lý.Về phương pháp dạy học: Quy trình Công nghệ bao gồm hai công đoạn là công đoạn Lập mẫu và công đoạn Dùng mẫu. Lập mẫu là quá trình T tổ chức cho HS chiếm lĩnh khái niệm trên một vật liệu xác định. Dùng mẫu là luyện tập với vật liệu khác trên cùng một chất liệu với công đoạn Lập mẫu. Để thực hiện quy trình này, T phải sử dụng phương pháp Mẫu. T phải xuất phát từ Mẫu, phân tích Mẫu và vận dụng Mẫu. Mỗi mẫu cơ bản trên tương ứng với quy trình của một tiết Lập mẫu. Dựa trên quy trình của tiết Lập mẫu đó có thể xây dưng nhiều tiết Dùng mẫu. Bên cạnh phương pháp Mẫu còn phải kể đến một phương pháp đặc trưng xuyên suốt quá trình dạy học theo quy trình công nghệ – phương pháp Việc Làm. Đây là phương pháp dạy học hoàn toàn mới, xây dựng trên cơ sở sự hợp tác mới giữa Thầy và Trò. Trong đó, T tổ chức việc học của HS (T không giảng, chỉ giao việc, hướng dẫn, theo dõi, điều chỉnh) thông qua những việc làm cụ thể và những thao tác chuẩn xác do các em tự làm lấy. Điều này thể hiện rất rõ qua toàn bộ thiết kế TV1.CGD.Về kĩ thuật dạy học: Kĩ thuật dạy học đã được chuyển giao thành công nghệ mới. Công nghệ mới chính là quá trình có thể kiểm soát được. Quá trình này cho ra những sản phẩm đồng loạt, bảo đảm độ tin cậy một cách chắc chắn. Đặc biệt quá trình này có thể thực hiện được ở mọi nơi khác nhau bởi tính phân hoá ưu việt của chương trình và cách kiểm soát triệt để tới từng cá thể HS.4. Về cơ chế thức tổ chức và kiểm soát quá trình dạy học Khác với nền giáo dục cổ truyền , CGD đã xây dựng một quy trình lôgic, có sự kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống Việc làm- thao tác cụ thể, tường minh. Để thiết kế được hệ thống việc làm-thao tác cho việc hình thành- chiếm lĩnh một khái niệm, CGD xác định nhiệm vụ một cách rõ ràng : – Làm rõ các thành phần (đơn vị kiến thức-kỹ năng) cấu thành của khái niệm ấy. – Coi nhiệm vụ hình thành được mỗi đơn vị (kiến thức-kỹ năng) cấu thành ấy là một việc làm – Xem xét trong mỗi việc làm ấy cần những đơn vị việc nhỏ nhất gì, định cho mỗi đơn vị nhỏ nhất ấy một thao tác, sao cho đến thao tác cuối cùng ta hoàn thành xong một việc làm. – Thống kê sắp xếp các việc làm- thao tác vừa xong, ta có một hệ thống việc làm- thao tác cần thiết kế. – Rà soát, tu chỉnh lại hế thống trên để có chính thức một hệ thống việc làm-thao tác tối ưu cho hoạt động dạy học khái niệm.5. Về nhận xét, đánh giá sản phẩm giáo dục CGD nhấn mạnh vấn đề đánh giá sản phẩm giáo dục thông qua hoạt động của HS, đánh giá dựa trên quá trình chứ không phải đánh giá dựa vào kết quả tại một thời điểm. Việc đánh giá không chỉ dừng ở phương diện kiến thức, kĩ năng mà còn xem xét ở góc độ ý thức học tập và phương pháp học tập. Học môn Tiếng Việt chúng tôi H không chỉ ý thức được các hoạt động của chủ thể mà còn tự kiểm soát được quá trình hình thành tri thức. H không chỉ có thói quen làm việc độc lập mà còn hình thành một phương pháp tự học, tự mình chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động của chính bản thân. Để đánh giá HS, CGD không chỉ nhìn nhận trong cả quá trình mà còn so sánh đối chiếu với chính cá thể đó ở các thời điểm khác nhau. Sự tiến bộ của một HS phải được so sánh với chính bản thân HS trong cùng một hoạt động. Có 4 mức độ đánh giá đối với quá trình chiếm lĩnh đối tượng của HS: – Mức 1: làm được – Mức 2: làm đúng – Mức 3: làm đẹp – Mức 4: làm nhanh Mức 1, 2 là yêu cầu cơ bản, tối thiểu cần đạt cho 100% học sinh. Mức 3,4 thể hiện sự phân hóa HS rõ nét trong quá trình dạy học.

Ngô Hiền Tuyên

Vụ Giáo dục tiểu học- Bộ Giáo dục và Đào tạo

Hiệu Quả Từ Dạy Học Tiếng Việt Lớp 1 Theo Công Nghệ Giáo Dục

Được tham gia vào một tiết học Tiếng Việt của cô và trò lớp 1A2, trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên, chúng tôi bắt gặp không khí hào hứng của cô và trò nơi đây. Học sinh được thực hành theo các cử chỉ của giáo viên. Mỗi khi giáo viên đưa tay trái ra là các em đọc âm và tay phải là vần. Khi xòe hai bàn tay ra là phân tích, gập hai bàn tay lại là tổng hợp. Cứ như thế, việc học theo phương pháp cô làm mẫu rồi trò làm theo đã kích thích sự chủ động trong tư duy, hành động của học sinh. Phương pháp dạy học mới theo CNGD khơi gợi tính sáng tạo, tự giác tiếp thu bài dễ dàng. Nếu như chương trình học cũ đối với học sinh lớp 1 môn Tiếng Việt đánh vần là chủ yếu thì nay các em được tiếp cận bằng việc phân tích âm, vần qua cử chỉ của 2 tay. Thao tác phụ trợ này tạo sự hứng thú giúp học sinh làm chủ kiến thức và tiếp thu bài dễ dàng hơn.

Giờ học Tiếng Việt của cô và trò lớp 1A2, trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên.

Cô Hoàng Thị Hương – giáo viên chủ nhiệm lớp 1A2 tâm sự: “Đối với giáo viên việc tiếp cận chương trình này không hề đơn giản, tôi phải nghiên cứu kỹ tài liệu, học hỏi đồng nghiệp trau dồi thêm chuyên môn. Trước mỗi giờ lên lớp tôi đều chuẩn bị dụng cụ phụ trợ cho công tác dạy học đồng thời định hướng mục tiêu là phát huy tính chủ động, tự học, phát triển năng lực học sinh. Cùng với đó đưa ra những nhận xét, động viên, góp ý vừa khích lệ nhưng cũng phải khắt khe để nâng tính tự giác của các em trong quá trình học”.

Có thể thấy, phương pháp học môn Tiếng Việt lớp 1 theo CNGD giúp học sinh không chỉ nắm chắc kiến thức ngữ âm, chính tả mà còn tạo hứng thú cho các em đến trường. Sau gần 5 năm áp dụng ở trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên: chất lượng học môn Tiếng Việt của học sinh lớp 1 đã được nâng lên nhiều so với trước, số lượng học sinh xếp loại khá, giỏi môn Tiếng Việt tăng hơn. Năm học 2013-2014, Trường có 108 học sinh theo học lớp 1, trong đó học lực giỏi đạt 70%, khá 27%, trung bình 3%; hạnh kiểm thực hiện đầy đủ 99,8%.

Tìm hiểu được biết, phương pháp dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 theo CNGD dành cho học sinh vùng dân tộc thiểu số, bao gồm 4 nội dung: Học vần, viết, đọc và viết chính tả. Học sinh sẽ được học kiến thức từ âm đến chữ, cách phân tích cấu trúc ngữ âm, xác định vị trí âm trong một tiếng gồm âm đầu, âm chính và âm cuối. Để làm tốt điều này, Ban Giám hiệu trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên thường xuyên tạo điều kiện cho giáo viên được tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn do Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh tổ chức. Đồng thời tăng cường các buổi sinh hoạt chuyên môn theo tổ, nhóm để giáo viên có cơ hội trao đổi, rút kinh nghiệm và góp ý cho nhau. Về phía lãnh đạo nhà trường cũng tăng cường dự giờ, góp ý, tư vấn để kịp thời giải đáp vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình. Ngoài ra, trường cũng chỉ đạo giáo viên tự bồi dưỡng, nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để từng bước nâng cao tay nghề đáp ứng yêu cầu giảng dạy. Yếu tố tay nghề giỏi cũng là khía cạnh để Nhà trường đưa vào hình thức thi đua khen thưởng vào cuối năm học.

Thầy giáo Lê Sĩ Chiến – Hiệu trưởng trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên cho biết: “Với mục tiêu giúp học sinh lớp 1 có thể đọc thông viết thạo, học đâu chắc đấy. Nhà trường luôn quan tâm để giáo viên có thời gian ứng dụng tốt chương trình dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 theo CNGD vào giảng dạy. Trước đây học sinh lớp 1 hoàn thành chương trình vẫn còn một số em chưa đọc thành thạo, chữ viết chưa chuẩn thì chương trình này học sinh nắm chắc luật chính tả cũng như hệ thống cấu trúc ngữ âm Tiếng Việt”

Thành công bước đầu của phương pháp dạy học Tiếng Việt lớp 1 theo CNGD ở trường Tiểu học số 1, thị trấn Tân Uyên là nền tảng để nhà trường từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. Qua đó, góp phần thực hiện tốt mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục trên địa bàn huyện nói riêng và tỉnh ta nói chung.

Chuyên Đề Khối 1 Tiếng Việt Công Nghệ Giáo Dục ( Tập 1)

PHÒNG GD-ĐT ĐAM RÔNG TRƯỜNG TH ĐA KAO CHUYÊN ĐỀ KHỐI 1 TIẾNG VIỆT CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC ( TẬP 1) I. LÍ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ: Chương trình tiểu học giúp các em có những hiểu biết ban đầu để các em ham thích các môn học. Các môn học ở tiểu học giúp HS : đọc thông, viết thạo, nói rõ ý, viết đúng câu, hiểu rõ quan hệ của bản thân với môi trường TN-XH. Với đặc điểm HS chủ yếu là người dân tộc thiểu số của huyện Đam Rông nói chung và trường Tiểu học ĐaKao nói riêng thì việc dạy các môn học đạt theo Chuẩn KT-KN là một vấn đề rất khó, đặc biệt ở môn Tiếng Việt. Chương trình tiếng việt mới càng khó khăn hơn đối với các em . 1 chương trình hoàn toàn mới . Để góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học tôi đã nghiên cứu và đưa ra 1 số khó khăn mà khi chúng tôi dạy thực tế ở lớp và đề ra 1 số giải pháp giúp các em tiếp cận với môn Tiếng việt công nghệ giáo dục 1 (Tập 1)như sau: II. THỰC TRẠNG 1. Thuận lợi: - Được sự quan tâm của chính quyền địa phương và các cấp Đảng uỷ đã tạo điều kiện tốt cho công tác giáo dục của trường học. Chi bộ và BGH nhà trường luôn chỉ đạo sát sao tới công tác dạy và học. - Cơ sở vật chất nhà trường có đủ phòng học 2buổi/ ngày. - Khối 1 có 3 giáo viên đề là những người nhiệt tình trong công việc, tham gia đầy đủ các lớp tập huấn chuyên môn do phòng đề ra. - Sách vở hs được cấp đầy đủ. 2. Khó khăn: -Khối 1có 46 em đều là học sinh dân tộc thiểu số. Chưa nói thông thạo tiếng Việt. Bố mẹ chưa quan tâm đến việc học của các em, còn khoán trắng cho giáo viên và nhà trường. -Còn nhiều hs khuyết tật, 1 số em nhà xa hay vắng học. -1 số em lười học , học chậm, không biết đọc , biết viết , chuyển sang học chương trình tiếng việt mới học rất chậm. - Các em không có các đồ dùng cơ bản phục vụ cho việc học tập . - Trình độ dân trí trong địa bàn trường quản lí và các vùng phụ cận chưa cao dẫn tới việc quan tâm cho con em học tập còn hạn chế. - Một số em do hoàn cảnh kinh tế quá khó khăn; một số em do bố mẹ đi làm xa dẫn tới không có ai lo cho việc học hành của các em. Chính những điều đó đã làm cho việc học của các em ngày càng giảm sút. -Trong quá trình viết các em chưa tự viết được bài, độ cao con chữ chưa chuẩn. III. MÔT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HS HỌC TỐT TIẾNG VIỆT CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC 1. Giáo viên gương mẫu trong cách phát âm và viết: Khi đọc bài gv cần hướng dẫn cụ thể và phát âm chuẩn, cho hs đọc lại nhiều lần Khi viết mẫu cần cụ thể từng nét, hướng dẫn đúng độ cao con chữ. 2. Kiểm tra thường xuyên để uốn nắn cho học sinh: Tôi thường xuyên kiểm tra, gần gũi các em học sinh hay mắc lỗi để động viên, khuyến khích các em, không để các em chán nản và phối hợp cùng với gia đình tìm biện pháp rèn riêng cho từng em. 3. Rèn kĩ năng đọc đúng Cho hs đọc thật chuẩn và chính xác bài đọc . Cho cả lớp đọc, đọc cá nhân để phát hiện lỗi sai chỉnh sửa kịp thời 4.Rèn kĩ năng viết chính tả: - Muốn viết chính tả tốt trước hết HS phải được luyện đọc nhiều và đọc đúng . - Xác định rõ từng em học sinh hay viết sai chính tả và các lỗi sai hay mắc phải , xếp những em này ngồi ở những vị trí bàn đầu để dễ quan sát và kiểm tra trong khi các em viết bài. - Sắp xếp những em hay viết sai chính tả ngồi gần những em HS đọc chuẩn, viết đúng chính tả để có thể giúp đỡ cho bạn. - Trong các buổi phụ đạo học sinh viết yếu chỉ chú trọng phần luyện viết và đọc . Gv chấm bài và sửa lại các lỗi sai cho hs Hs yếu chưa biết viết gv phải cầm tay cho hs viết. 5.Cụ thể trong bài dạy gv cần làm thêm : - Ở việc1 đọc tiếng mới, phân tích vẽ mô hình kết hợp ôn lại âm đã học. Phân tích nguyên âm hay phụ âm. - Ở việc 2 GV cho HS viết bảng con 1 số từ trong vở Em tập viết trước khi cho HS viết lại bài trong vở "Em tập viết" - Ở việc 4 GV hướng dẫn viết mẫu trên bảng lớp HS nhìn bảng lớp viết vào vở Chính tả. IV. QUY TRÌNH DẠY MÔN TIẾNG VIỆT * Luật chính tả e,ê có trong bài g,h,i,gi. * Tiếng gồm có các bài:- Tách rời ra từng tiếng. - Tiếng giống nhau, khác nhau. - Tách tiếng có thanh ngang ra 2 phần. - Tiếng có 1 phần khác nhau. * Âm gồm có 37 âm: a,b,c,ch,d,đ,e,ê,k,g,gh,h,i,gi,kh,l,m,n,ng,ngh,nh,o,ô,ơ,p,ph,r,s,t,th,tr,ch,u,ư,v,x,y. * 1 buổi có 2 tiết gồm 4 việc: - Tiết1: Việc 1-2. - Tiết 2: Việc 3-4. QUY TRÌNH DẠY ÂM -Vẽ mô hình tiếng bài cũ -Viết bảng con Gv nhận xét ghi điểm. 2.Bài mới .Việc 1: Chiếm lĩnh đối tượng. 1a: Giới thiệu âm mới. 1b : Phân tích tiếng. 1c: Vẽ mô hình. Việc 2: Viết chữ ghi phụ âm. 2a: Giới thiệu chữ in thường. 2b: Giới thiệu chữ viết thường. 2c: Viết tiếng có âm mới. 2d: Hướng dẫn viết vở " Em tập viết". Việc 3: Đọc 3a: Đọc chữ trên bảng. 3b: Đọc sách Tiếng việt CNGD lớp1-tập 1. Việc 4: Viết chính tả. 4a: Viết bảng con. 4b: Viết vở chính tả(từ, câu ứng dụng). VII KẾT LUẬN Với phân môn Tiếng việt, để nâng cao chất lượng giảng dạy giáo viên phải vận dụng các phương pháp giảng dạy một cách linh họat và sáng tạo. Để thực hiện tốt việc viết đúng, viết đẹp phải thấy được sự gắn kết, hỗ trợ và tác động lẫn nhau giữa các khâu đọc, nghe, nói, viết. Bởi vì giáo viên phải đọc, học sinh nghe rồi mới viết vào vở do đó giáo viên phải là người chuẩn mực trong tất cả các khâu trên. Ngoài ra giáo viên phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, hết lòng vì học sinh, có ý thức tìm tòi sáng tạo, phát hiện những cái mới, cái hay, cái tiến bộ để vận dụng hoàn thiện phương pháp giảng dạy của mình. Đối với gia đình học sinh: Cần quan tâm nhiều hơn đến việc học tập của trẻ. Tạo điều kiện học tập tốt nhất cho các em cả về vật chất lẫn thời gian. - Đồng thời cần tăng cường khả năng giao tiếp bằng Tiếng Việt trong mọi tình huống. Vì có giao tiếp bằng tiếng việt các em mới hiểu được hết nghĩa của tiếng Việt. - Trong các môn học khác GV luôn hướng học sinh nói thành câu đủ ý khi trả lời bài Cho học sinh nói đúng , phát âm chuẩn ,viết đúng giúp đỡ học sinh yếu cùng tiến bộ . Chuyên đề này chỉ áp dụng trong 9 tuần đầu cuả năm học *Với thời gian dạy chưa nhiều rất mong được sự góp ý của BGH, của các bạn đồng nghiệp để chúng tôi dạy tốt hơn. Đạ Tông, ngày 1/10/2013 Người viết Ninh Thị Hà