Học Tiếng Nhật Phổ Thông / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Theolympiashools.edu.vn

Trường Trung Học Phổ Thông Ở Nhật Bản

Điều đầu tiên bạn sẽ được hoàn thiện các kỹ năng sống. Nhật Bản chú trọng giáo dục xen lẫn với các hoạt động ngoại khóa cho học sinh. Chính vì vậy các trường học tại Nhật bản có rất nhiều các câu lạc bộ ngoại khóa. Ngoài ra, các em cũng sẽ được tham gia các lớp kỹ năng sống. Từ đó, các em có nền tảng kiến thức vững chắc và có thể định hướng được tương lai.

Điều thứ hai là tăng khả năng lĩnh hội kiến thức và tiết kiệm thời gian học tập. Như các bạn cũng đã biết để được học tập ở Nhật bạn phải có trình độ tiếng Nhật. Mặt khác, tiếng Nhật là một trong những ngôn ngữ được đánh giá là khó học nhất. Chính vì vậy, nhiều bạn cảm thấy cực kỳ áp lực khi học thứ ngôn ngữ này. Du học tại trường trung học phổ thông ở Nhật Bản sẽ giúp bạn có nhiều thời gian hơn để học. Mặt khác, đây là độ tuổi dễ tiếp thu kiến thức và chưa chịu nhiều áp lực từ việc học.

Và thêm một điều quan trọng nữa là cơ hội để trúng tuyển và trường Đại học danh tiếng cao hơn. Theo học tại Nhật Bản từ sớm giúp bạn có một sự chuẩn bị đầy đủ nhất. Nội dung chương trình học rất gần gũi với thực tiễn. Vì vậy, du học Nhật Bản từ cấp 3 là bạn được học tại các trường Đại học tốt ở Nhật.

II. Một số trường trung học phổ thông ở Nhật Bản được chú ý

1. Trường trung học phổ thông ở Nhật Bản – Kokusai

Hay còn gọi là Kokusai Koko, trường là một trong những trường trung học quốc tế công lập nằm trong top 10 trường trung học nổi bất ở Tokyo. Tọa lạc tại Komaba, phường Meguro, Tokyo, trường thường tổ chức tiếp nhận với số lượng khoảng 25 học sinh nước ngoài vào tháng 4 và 5 học sinh nữa vào tháng 9.

Chương trình đào tạo phổ thông của trường theo chuẩn quốc tế chủ yếu bằng tiếng Anh. Điểm đặc biệt là học sinh nước ngoài có thể tham gia những môn học đặc biệt bằng tiếng Nhật (bao gồm cả toán học, sinh học và ngôn ngữ) tùy theo trình độ. Đây là ngôi trường thu hút rất nhiều du học sinh đến từ nhiều nước trên thế giới.

2. Trường Trung học phổ thông Bunri Kaisei

Trường trung học phổ thông ở Nhật Bản Bunri Kaisei nằm tại thành phố Chiba, cách thủ đô Tokyo 120km về phía bắc. Ngôi trường nằm đối diện với bãi biển nên không khí vô cùng trong lành và có nhiều hoạt động ngoài trời cho học sinh tham gia. Ký túc xá của trường thường là 1 phòng 2 người với đầy đủ nội thất như bàn ghế, tủ đựng đồ, giường tầng, máy lạnh, phòng vệ sinh, phòng tắm, máy giặt,…

Với phương châm giáo dục: “Nâng cao môi trường học tập tốt nhất cho học sinh tự chủ học tập, cùng nhau học tập”, các bạn học sinh sẽ tự chủ trong việc học tập, thi đua học tập, cùng nhau tiến bộ. Trường học tin rằng như vậy có thể thúc đẩy tiềm lực vô hạn của học sinh.

3. Trường trung học Fuchu Nishi

Trường nằm ở Fuchu, phường Nisshi, phía tây Tokyo. Cũng như trường trung học Asuka, trường thường phân nhiều lớp nhỏ tùy theo khả năng của học sinh nhằm giúp học sinh dễ dàng tiếp thu kiến thức, giảng dạy bằng thiết bị công nghệ tiên tiến. Chương trình năm nhất của trường Fuchu Nishi thường tập trung vào công nghệ thông tin và xã hội nhân văn vào năm thứ hai. Trường có 15 chỉ tiêu dành cho học sinh quốc tế, thời gian nhập học cũng vào tháng 4 và tháng 9.

4. Trường trung học Asuka

Asuka là trường trung học phổ thông ở Nhật Bản nằm ở Oji, phường Kita. Đây là ngôi trường có số lượng giáo viên thường đông hơn những trường khác. Và ngôi trường này cũng cho phép chia nhỏ thành nhiều lớp phù hợp với khả năng tiếng Anh, toán học và tiếng Nhật của học sinh. Mỗi năm trường tiếp nhận khoảng 20 học sinh nước ngoài vào tháng 4 và 3 học sinh vào tháng 9, tuy nhiên số lượng tối đa học sinh quốc tế được tiếp nhận có thể lên đến 130 học sinh một năm.

5. Trường trung học Minami Katsushika

Trường trung học phổ thông ở Nhật Bản này nằm tại Tateishi, phường Katsushika, Tokyo. Cũng giống như trường trung học Fuchu Nishi, trường Minami Katsushika này thường nhận 15 học sinh quốc tế trong đợt tuyển sinh tháng 4 và 3 học sinh vào tháng 9. Lớp học từ 20 – 30 học sinh với nhiều môn học, phân ra lớp toán và lớp tiếng Anh theo khả năng của học sinh. Ngoài ra, trường thường tổ chức các lớp học bồi dưỡng vào thứ bảy, các hoạt động ngoại khóa để học sinh có thể trao dồi kỹ năng mềm cho bản thân.

6. Trường trung học phổ thông ở Nhật Bản – Tagara

7. Trường trung học Takenidai

Takenidai là trường trung học nằm ở Higashi – Nippori, phường Arakawa, mỗi năm nhận 18 học sinh nước ngoài trong 2 kỳ tuyển sinh vào tháng 4 và tháng 9. Với mục tiêu trở thành một ngôi trường nuôi dưỡng con người với một đạo đức cân bằng, hiện thực hóa các mục tiêu giáo dục và tồn tại trong xã hội đang thay đổi nhanh chóng.Trường thường tổ chức các lớp bồi dưỡng vào thứ bảy và trong kỳ nghỉ hè. Ngoài ra, học sinh có thể thể hiện tinh thần tự giác học tập với những căn phòng tự học sau giờ học.

8. Trường trung học thuộc Đại học Công giáo Quốc tế

Ngôi trường này nằm trong khuôn viên Đại học Công giáo Quốc tế (ICU), thuộc phía tây thành phố Koganei, Tokyo. Đây là một trong những ngôi trường phổ thông tư thục hàng đầu ở Nhật với hơn 65% học sinh đều là du học sinh. Tất cả các môn học đều giảng dạy bằng tiếng Nhật, không kể những môn học có giáo viên tiếng Anh bản xứ giảng dạy. Trong kỳ tuyển sinh năm 2017, trường nhận 80 học sinh, bao gồm một số nhỏ học sinh quốc tế. Chi phí năm 2016 của trường là 330,000 Yên phí nhập học và 591,000 Yên học phí thường niên. Ngoài ra, trường còn có cả ký túc xá.

9. Trường trung học Quốc tế Kanto

Là trường trung học phổ thông ở Nhật Bản nằm ở Shinjuku, Tokyo. Chương trình giảng dạy được phân theo 3 chương trình: giáo dục tổng hợp, ngoại ngữ học và nghệ thuật biểu diễn. Học sinh nước ngoài chỉ được chấp nhận vào lớp văn hóa Nhật theo chương trình giáo dục tổng hợp. Học phí mỗi năm thường ở mức 240,000 Yên và 31,500 Yên mỗi tháng. Đây cũng là một ngôi trường được rất nhiều bạn chú ý trong thời gian gần đây.

10. Trường trung học phổ thông ở Nhật Bản – Otsuma Tama

Là một trong những trường trung học phổ thông ở Nhật Bản dành cho nữ nằm ở thành phố Tama, phía Tây Tokyo, mỗi năm có khá nhiều bạn lựa chọn học tại ngôi trường này nhưng chỉ tiêu dành cho học sinh nước ngoài lại khá ít. Otsuma là trường liên cấp 6 năm trung học cơ sở và trung học phổ thông. Trường thường tập trung phát triển khả năng học thuật cơ bản, 3 năm cuối thì tập trung chuẩn bị cho kỳ thi đại học. Chính vì thế, tỷ lệ học sinh đậu vào đại học rất cao. Đây là cơ hội lớn cho những bạn muốn tiếp tục con đường đại học của mình.

III. Danh sách tổng hợp các trường trung học phổ thông ở Nhật Bản

Tiếng Anh Học Sinh Phổ Thông

Thạc sĩ Lê Tuệ Minh: “Đa số giáo viên tiếng Anh đều không đạt trình độ chuẩn yêu cầu về ngôn ngữ và ít có điều kiện được nâng cao trình độ”.

Mong muốn có thêm nhiều góp ý chất lượng giúp Bộ Giáo dục và Đào tạo chuẩn bị tốt nhất cho mục tiêu đổi mới chương trình – sách giáo khoa phổ thông, Báo Giáo dục Việt Nam trân trọng gửi tới độc giả góc nhìn của Thạc sĩ Lê Tuệ Minh – Chủ tịch Điều hành Trường phổ thông song ngữ liên cấp Wellspring.

Thạc sĩ Lê Tuệ Minh phân tích về những tồn tại hạn chế của chương trình, cách dạy tiếng Anh hiện nay, gây lãng phí và tốn kém quá lớn, nhưng hiệu quả thu được lại quá thấp.

3 hạn chế cần thay đổi

Khi đánh giá một chương trình, tôi thấy luôn cần phải xem xét ba khía cạnh lớn: Một là chương trình – giáo trình – phương pháp giảng dạy; Hai là giáo viên; Ba là điều kiện thực hiện chương trình: Thời lượng, cách tổ chức giảng dạy và cơ sở vật chất.

Tất cả các ưu, nhược điểm của chương trình cũng như những giải pháp để có thể khắc phục, điều chỉnh, cập nhật, thay đổi… đều được xem xét xoay quanh 3 khía cạnh này.

Về chương trình, giáo trình tiếng Anh do các chuyên gia Việt Nam tự xây dựng từ cách đây khá lâu đã không còn phù hợp với đòi hỏi hiện nay của học sinh và xã hội.

Chương trình vẫn sử dụng những phương pháp giảng dạy cũ, theo hướng quy nạp (inductive), diễn dịch (deductive), thiên về ngữ pháp, chưa cập nhật theo khung chuẩn ngôn ngữ châu Âu (CEFR).

Cụ thể là chưa cập nhật với các phương pháp giảng dạy ngoại ngữ thiên về giao tiếp (communicative), ứng dụng các phương tiện nghe, nhìn, kỹ thuật số và phương pháp lồng ghép các nội dung kiến thức các môn học khác trong giảng dạy ngoại ngữ (CLIL) như phương pháp đang được áp dụng phổ biến trong các chương trình và giáo trình giảng dạy tiếng Anh của các nhà xuất bản lớn trên thế giới hiện nay.

Trước thực trạng này, Bộ Giáo dục cũng đang hết sức tích cực phối hợp với các Nhà xuất bản lớn chuyên về chương trình, giáo trình giảng dạy tiếng Anh như Oxford, Cambridge, Pearson, Mac Millan… để lựa chọn chương trình và bộ giáo trình phù hợp nhất cho học sinh Việt Nam.

Về giáo viên, nhìn tổng thể có rất nhiều vấn đề lớn, đặc biệt là trường công ở khu vực nông thôn: Thiếu nghiêm trọng kể cả về số lượng và chất lượng giáo viên, vì giáo viên chưa được đào tạo đạt chuẩn, đồng thời một số giáo viên đã đạt chuẩn thì lại rẽ ngang sang làm những nghề khác.

Có lẽ với mức thu nhập như hiện nay của giáo viên phổ thông ở hệ thống công lập, ngành giáo dục sẽ còn “chảy máu chất xám”.

Đại đa số các giáo viên tiếng Anh ở lại với nghề đều không đạt trình độ chuẩn yêu cầu về ngôn ngữ và ít có điều kiện được đào tạo, cập nhật để nâng cao trình độ.

Đây là việc không dễ giải quyết một sớm một chiều mà chỉ có thể khắc phục được phần nào bằng cách ứng dụng công nghệ.

Đặc biệt, khía cạnh thứ ba về mặt tổ chức và điều kiện thực hiện chương trình có rất nhiều vấn đề mà hầu như chưa tìm được giải pháp cho tổng thể.

Khi chúng ta cập nhật được chương trình hiện đại, có giải pháp về công nghệ thì sẽ khắc phục được phần nào bài toán về giáo viên.

Ngoài những hạn chế phổ biến do lớp học quá đông trên dưới 50 học sinh (gấp đôi quy mô tối thiểu một lớp học ngoại ngữ hiệu quả), điều kiện ứng dụng công nghệ (máy chiếu, tivi màn hình lớn, thiết bị tương tác, máy tính….) thì hạn chế lớn nhất là do hệ thống tổ chức giảng dạy tiếng Anh đang không có quy hoạch thống nhất.

Các trường triển khai chương trình tiếng Anh tùy theo điều kiện từng trường, từng cấp, không có sự quy hoạch một cách hệ thống và nối tiếp giữa các câp học với nhau, trong khi trường phổ thông ở Việt Nam rất ít trường liên cấp, đa phần là tách rời từng cấp học.

Chính vì vậy, mỗi lần chuyển cấp, các em lại học lại từ đầu rất lãng phí thời gian và tạo ra thời gian “chết” trong các tiết học tiếng Anh theo chương trình đại trà bắt buộc học chung theo cả khối.

Trong khi đó, nếu chương trình được tổ chức theo hướng nối tiếp theo bậc thang đi lên giữa các cấp học, học sinh sẽ thực sự học và tiến bộ đúng theo trình độ và khả năng thực tế của các em.

Có thể thấy ngay điều này khi học sinh tham gia học tập tại các trung tâm ngoại ngữ với giáo viên bản ngữ, chương trình chuẩn… đã đạt được kết quả vượt xa học sinh chỉ học chương trình đang áp dụng đại trà trong các trường.

Cần đổi mới thực sự chương trình, phương pháp dạy ngoại ngữ

Việc đưa vào áp dụng chương trình và giáo trình theo chuẩn, cập nhật các phương pháp giảng dạy tiên tiến do các chuyên gia đầu ngành của các nhà xuất bản chuyên ngành lớn trên thế giới sẽ mang lại một thay đổi căn bản về nội dung và phương pháp giảng dạy.

Về mặt tổng thể, việc ứng dụng các nguồn tài liệu kỹ thuật số với các phương tiện nghe nhìn như video, film, các đoạn hội thoại, các mô phỏng, các bài giảng được các giáo viên bản ngữ trực tiếp thực hiện với các tình huống giao tiếp thực tế… sẽ là những hướng thay thế khả thi với tình trạng khan hiếm giáo viên chuẩn như hiện nay với kinh phí phù hợp, không quá tốn kém và có thể linh hoạt triển khai tùy điều kiện, tùy mức độ ở tất cả các trường.

Vấn đề tổ chức chương trình theo hệ thống tăng tiến theo bậc thang chứ không bị lặp lại sẽ là vấn đề khó khăn nhất do quá trình thực hiện chương trình cũ đang tạo ra sự khác biệt về trình độ của học sinh quá lớn và điều kiện tổ chức các cấp học vẫn riêng biệt, không có sự kết nối.

Việc này chỉ có thể giải quyết phần nào nếu Bộ Giáo dục cho phép các trường được chủ động trong việc tổ chức chương trình, áp dụng linh hoạt các trình độ tiếng Anh khác nhau tùy theo điều kiện đầu vào của trình độ học sinh của từng trường.

Muốn như vậy, việc ban hành một thang chuẩn về trình độ như kiểu CEFR (thang khung tham chiếu ngôn ngữ châu Âu) và để chương trình, giáo trình bám theo khung chuẩn đó thay vì ấn định đồng loạt theo khối lớp như hiện nay là rất cần thiết.

Xét cho cùng, Bộ Giáo dục cũng đã ban hành quy định cho phép thay thế việc thi tốt nghiệp lớp 12 bằng kết quả các kỳ thi chuẩn hóa tiếng Anh toàn cầu như IELTS và TOEFL thì việc học trong suốt 12 năm theo đúng thang bậc và chuẩn khảo thí như vậy cũng nên triển khai sớm để tiết kiệm sức lực cho các em (vì kết quả đó cũng sẽ dùng để xét tuyển tại bậc Đại học), tránh lãng phí trong những giờ học tại trường phổ thông.

Đối với những trường như Wellspring thì có lợi thế hơn nhiều so với các trường công lập khi thiết kế chương trình tiếng Anh, với sự hỗ trợ và công nhận của các tổ chức giáo dục và khảo thí uy tín hàng đầu thế giới nên phần lớn những vấn đề bất cập đều được xem xét và giải quyết ngay từ đầu.

Ngay trong một khối lớp, chúng tôi có thể chia những lớp thuộc 3-4 trình độ tiếng Anh khác nhau từ điểm xuất phát, vì nếu gộp hết vào một lớp thì rất lãng phí và không công bằng, tối ưu với các em.

Có những học sinh của chúng tôi khi hết Tiểu học đã đạt mức tiếng Anh ở trình độ B1, thậm chí là B2 (theo khung tham chiếu ngôn ngữ châu Âu – CEFR) thì các em phải xuất phát từ lớp 6 với giáo trình Intermediate (trung cấp) chứ không thể học cùng với các em có xuất phát điểm ở mức độ Beginner (khởi đầu) được.

Chúng tôi xin chia sẻ về chương trình như sau: Học sinh Tiểu học và THCS được học song ngữ với 3 cấu phần chính: Chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo (60%), Tiếng  Anh, các môn Toán, Khoa học, Công nghệ thông tin (ICT) chiếm 40% với chuẩn chương trình và đánh giá là các bài thi trực tiếp của Cambridge International Examinations (CIE), Cambridge English, ETS (TOEFL), ERB (Hoa Kỳ) với giáo viên bản ngữ chiếm tới trên 80% thời lượng chương trình quốc tế.

Ở bậc THPT, học sinh sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn. Tùy theo định hướng về lộ trình học tập của học sinh  và gia đình, các em có thể tham gia chương trình Song ngữ, chương trình Phổ thông Quốc tế Cambridge IGCSE/ A Level (THPT Anh Quốc) hoặc chương trình  THPT Song bằng Việt  Nam –  Hoa Kỳ với trường THPT thuộc Đại học Missouri (top 100 trường Đại học hàng đầu Hoa Kỳ).

Việc nắm rõ khả năng và trình độ hiện tại của học sinh để phát hiện, bồi dưỡng, phát triển nhân tài và có chương trình phù hợp, hỗ trợ với những học sinh có xuất phát điểm chưa cao là sự ưu việt của một môi trường giáo dục cá thể hóa để tất cả các học sinh đều có lộ trình phát triển tối ưu nhất.

Theo Giaoduc.net.vn

Top Những Việc Làm Tiếng Nhật Phổ Thông Nhất Hiện Nay

Thời gian đăng: 25/08/2020 13:08

Mặc dù tiếng anh là ngôn ngữ toàn cầu, nhưng tiếng Nhật chính là sự lựa chọn thông minh cho những bạn muốn khác biệt, đây cũng là cơ hội giúp bạn có việc làm tiếng Nhật vô cùng tiềm năng. Đặc biệt các thực tập sinh, du học sinh về nước với vốn tiếng Nhật sẵn có dễ dàng tìm kiếm cho mình một công việc phù hợp với mức lương cực kì tốt.

Trước hết, xứ sở hoa anh đào luôn được biết đến là một đất nước có nền văn hóa lâu đời như văn hóa trà đạo, Kimono,… Biết tiếng Nhật đồng nghĩa với việc bạn có cơ hội tiếp cận trực tiếp với những tinh hoa đó qua sách báo, phim ảnh,.. giúp bạn khám phá và đến gần hơn với văn hóa, con người của cường quốc này.

Thứ hai, học tiếng Nhật giúp bạn có thể qua Nhật làm việc

Hiện nay sang Nhật làm việc đang là định hướng của nhiều thực tập sinh Việt, để có thể đặt chân tới đất nước này làm việc yêu cầu phải biết tiếng Nhật được coi là điều kiện bắt buộc. Nếu bạn muốn đi kỹ sư, kỹ thuật viên thì yêu cầu trình độ tiếng Nhật từ N4 trở lên, thực tập sinh thì bạn sẽ được công ty đào tạo tiếng

Nếu bạn muốn lựa chọn Nhật là đất nước để đi du học thì việc biết tiếng Nhật là lợi thế không nhỏ khi bạn có thể giảm bớt học phí cũng như rút ngắn được thời gian học tập tại trường. Hơn nữa, nếu các bạn có thể giao tiếp bằng tiếng Nhật tốt thì sẽ không phải lo lắng về vấn đề việc làm, cũng như những khi gặp khó khăn nơi đất khách quê người .

– Nhật Bản đang là nước có vốn ODA vào Việt Nam lớn nhất hiện nay, các tập đoàn của Nhật Bản đặt các nhà máy, trụ sở tại Việt Nam.

– Đất nước hoa anh đào hiện tại đang là địa điểm du lịch được nhiều du khách Việt lựa chọnu cầu đi du lịch Trung Quốc của người Việt Nam cũng ngày càng cao.

– Lượt khách Nhật hàng năm đến Việt Nam để du lịch, giao thương rất lớn

Như vậy bạn nghĩ cơ hội việc làm tiếng Nhật có cao không?

Nhu cầu biên, phiên dịch tiếng Nhật của các công ty Nhật Bản tại Việt Nam hoặc công ty Việt Nam làm việc với các đối tác Nhật Bản luôn không bao giờ cạn. Với trình độ tiếng Nhật của bạn từ N3 trở lên thì việc kiếm một công việc biên, phiên dịch với mức lương cao là không hề khó.

Có khả năng xử lý thông tin và ứng biến cao độ với mọi tình huống bất ngờ có thể xảy ra.

Chắc hẳn việc “mua hàng nội địa Nhật” đã vô cùng quen thuộc khi bạn đi mua mĩ phẩm, quần áo, điện tử hay bất cứ đồ thiết yếu nào khác. Hàng xuất xứ Nhật luôn được người Việt Nam ưu tiên bởi chất lượng của nó. Vì vậy nếu biết tiếng Nhật, bạn có thể tự liên hệ mua hàng, mở cửa hiệu, giảm chia sẻ lợi nhuận với các bên trung gian.

Một công việc lương thấp hay cao không phụ thuộc hoàn toàn vào người tuyển bạn và năng lực của bạn. Nếu xét so với ngành nghề khác, việc các thực tập sinh, du học sinh về nước mà có tiếng Nhật sẽ mang lại cho bạn mức lương cao hơn nhiều.

HỖ TRỢ TƯ VẤN TRỰC TUYẾN VÀ THỦ TỤC ĐĂNG KÝ THAM GIA

Nếu không tiện nói chuyện qua điện thoại hoặc nhắn tin ngay lúc này, bạn có thể YÊU CẦU GỌI LẠI bằng việc nhập số điện thoại vào form bên dưới để được cán bộ tư vấn của công ty liên lạc hỗ trợ.

Tìm Hiểu Hệ Thống Giáo Dục Phổ Thông Và Sau Phổ Thông Của Hàn Quốc

1. Sơ đồ hệ thống giáo dục các cấp (6-3-3-4)

Hệ thống giáo dục Hàn Quốc được cải tiến từ hệ thống giáo dục cũ (6-4-2-4) sang hệ mới (6-3-3-4).

Trẻ em Hàn Quốc từ 3 tuổi đến 5 tuổi thuộc giai đoạn mẫu giáo không bắt buộc; bắt đầu vào lớp 1 là 6 tuổi.  Giai đoạn phổ thông gồm ba cấp học: Tiểu học, Trung học cơ sở (THCS) và Trung học phổ thông (THPT).

Tiểu học kéo dài 6 năm từ 6 tuổi đến 12 tuổi; THCS 3 năm từ 13 đến 15 tuổi và THPT 3 năm từ 16-18 tuổi. Ở cấp học này, học sinh có thể chọn một trong hai hướng: THPT cơ bản (General High School) và TH nghề (Vocational High School); Lên Đại học cũng theo hai hướng Giáo dục hàn lâm (4 năm) và Giáo dục nghề (3 năm); Giáo dục bắt buộc ở Hàn Quốc là 9 năm (giai đoạn Tiểu học và THCS).

2. Chương trình và sách giáo khoa

Luật Giáo dục phổ thông đã nêu rõ mục tiêu và mục đích của giáo dục đối với mỗi cấp học là các nội dung do nhà trường và giáo viên tổ chức thực hiện. Để đảm bảo chất lượng giáo dục, Luật Giáo dục 155 đề ra chương trình cho mỗi cấp học và tiêu chuẩn để phát triển giáo trình và tài liệu hướng dẫn. Chương trình quốc gia và các hướng dẫn của địa phương đã tạo sự linh hoạt cho mỗi trường áp dụng chúng tuỳ vào đặc điểm và mục tiêu của trường đó.

A. Chương trình

Chương trình cơ bản chung của quốc gia bao gồm các môn học, các hoạt động tự chọn và các hoạt động ngoài giờ lên lớp (ngoài CT)

a. Chủ đề môn học được chia ra làm 10 lĩnh vực: Tiếng Hàn, GD đạo đức, Nghiên cứu XH, Toán, Khoa học, nghệ thuật ứng dụng ( công nghệ, kinh tế gia đình), Thể dục, Âm nhạc, Nghệ thuật và Ngoại ngữ (tiếng Anh). Tuy nhiên, nội dung môn học cho các lớp 1 và 2 có sự phân biệt bằng việc chỉ học các môn tiếng Hàn, toán, kỉ luật cuộc sống, cuộc sống thông minh, cuộc sống dễ thương và chúng ta là lớp Một.

b. Các hoạt động tự chọn được chia ra các hoạt động tự chọn theo môn học và các hoạt động tự chọn sáng tạo.

c. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp bao gồm hoạt động HS tự quản lý, các hoạt động thích ứng; các hoạt động tự phát triển, các hoạt động dịch vụ xã hội và các hoạt động thi đấu (thể thao).

Chương trình tự chọn THPT bao gồm các môn học và các hoạt động ngoài chương trình

a. Các môn học được chia thành môn chung và môn chuyên sâu

– Môn chung bao gồm: Tiếng Hàn, GD đạo đức, nghiên cứu XH, Toán, Khoa học, Công nghệ và Kinh tế gia đình, Thể dục, âm nhạc, nghệ thuật, ngoại ngữ, chữ Hán, cổ điển Hy La và tự chọn.

- Các môn học chuyên sâu bao gồm các học trình nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, nghề cá và vận tải biển, kinh tế gia đình và GD nghề, khoa học, thể dục, nghệ thuật, ngoại ngữ và quan hệ quốc tế.

b. Các hoạt động ngoài CT bao gồm hoạt động tự quản, hoạt động thích ứng, các hoạt động tự phát triển, các hoạt động dịch vụ xã hội và các hoạt động thi đấu(thể thao).

Chương trình cơ bản quốc gia nêu các môn học và các hoạt động, bao gồm: Tiếng Hàn, GD đạo đức, Nghiên cứu xã hôi, Toán, Khoa học, Thực hành nghệ thuật, Giáo dục thể chất, Âm nhạc, Nghệ thuật, Tiếng Anh, Hoạt động tự chọn, Hoạt động ngoài giờ lên lớp. Riêng lớp 1 và 2 chỉ học các môn sau: Tiếng Hàn, Sống có kỉ luật, Sống thông minh, Toán, Sống dễ chịu.

Lớp 11 và 12 học các môn học tự chọn (Elective subject) với hai loại: tự chọn cơ bản (general elective) và tự chọn chuyên sâu (intensive elective). Ví dụ môn Tiếng Hàn: tự chọn cơ bản là đời sống ngôn ngữ Hàn; còn tự chọn chuyên sâu là: nói, đọc hiểu viết luận, ngữ pháp và văn học.

Với môn Toán, tự chọn cơ bản là thực hành toán, còn tự chọn chuyên sâu gồm: Toán I, Toán II, tích phân và vi phân, xác xuất và thống kê, toán rời rạc.

B. Sách giáo khoa (SGK)

Có ba loại SGK: Loại I do Bộ GD biên soạn và giữ bản quyền; Loại II được Bộ GD cấp phép (certified) và có thể sử dụng; Loại III là loại sách có xác nhận (recognized) hoặc chịu sự quản lí của Bộ GD.

Loại I là loại gần như dùng trong tất cả các trường tiểu học. Với THCS là các môn như tiếng Hàn, lịch sử Hàn Quốc, giáo dục đạo đức. Loại II là loại sách được sử dụng phần lớn trong các trường THCS và loại III là loại rất ít được sử dụng.

3. Giáo dục dự bị tiểu học (mẫu giáo)

Co 3 loại hình mẫu giáo là quốc gia, công lập và tư thục. Tính đến năm 2003, có 8.292 trường mẫu giáo trên cả nước.

4. Giáo dục tiểu học

Mục tiêu GD tiểu học là, kỳ vọng sau khi học xong tiểu học, các em sẽ có được những tri thức cơ bản và các kĩ năng sống. Kết thúc bậc tiểu học, học sinh cần đạt được các yêu cầu sau:

a. Rèn luyện cân đối cả về vật chất lẫn tinh thần.

b. Có cơ hội phát triển các kĩ năng sống cơ bản và biết bày tỏ những cảm xúc và suy nghĩ của mình bằng nhiều cách khác nhau.

c. Có sự lựa chọn đúng đắn hơn khi tìm kiếm mục tiêu và phương pháp học tập.

d. Có tầm nhìn rộng về truyền thống và văn hóa dân tộc.

e. Có thói quen sống khỏe mạnh, có tình yêu đối với đất nước Hàn Quốc và những dân tộc xung quanh.

Năm 1954 có khoảng 2.807 trường tiểu học với 1.570.000 học sinh. Đến năm 2002 là 5.384 trường với hơn 4 triệu học sinh. Kể từ thập niên 1970, số học sinh tiểu học có xu hướng giảm đi do việc ngăn cấm không cho trẻ em dưới 6 tuổi nhập học tiểu học.

5. Giáo dục trung học

A. Trung học cơ sở

Học sinh THCS bắt đầu giai đoạn tiếp theo với sự phát triển học vấn và các kĩ năng sống, những hiểu biết, như một người công dân,… Kết thúc trường THCS, học sinh sẽ:

a. Có được cơ thể và tinh thần khỏe mạnh, được tôi luyện kinh nghiệm để tự khám phá bản thân mình.

b. Phát triển các kĩ năng sống, những khả năng giải quyết vấn đề cần thiết cho tương lai và có khả năng tự thể hiện một cách sáng tạo.

c. Biết tìm kiểm và xử lí từ nền tảng kiến thức và kĩ năng rộng lớn để học lên cao và phát triển nghề nghiệp.

d. Có niềm tự hào về truyền thống và văn hóa của đất nước, có quyết tâm cải thiện nó ngày càng tốt hơn.

e. Có hiểu biết về nguyên tắc dân chủ mà Hàn Quốc chịu sự chi phối, trau dồi ý thức về trách nhiệm xã hội.

Kể từ 1969, luật giáo dục cho phép các em học sinh nhập học THCS ở nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của mình. Năm 2002, tỷ lệ học sinh vào THCS lên tới 99%.

B. Trung học phổ thông

Mục đích của cấp học này là, trang bị cho các em một khả năng suy nghĩ và tư duy một cách lôgic, tích cực và sáng tạo để chuẩn bị bước vào cuộc sống; các mục tiêu  chủ yếu là:

a. Rèn luyện cơ thể và tinh thần khỏe mạnh, biết khám phá các giá trị của bản thân và cuộc sống bên ngoài.

b. Có khả năng suy nghĩ, lập luận và phê phán với phương pháp sáng tạo.

c. Cung cấp các kiến thức và kỹ năng trên nhiều lĩnh vực để các em có thể tự tìm cho mình một nghề nghiệp thích hợp với khả năng cũng như năng khiếu của mình.

d. Nhiệt tình cải thiện truyền thống và văn hóa dân tộc.

e. Nỗ lực làm việc vì đất nước và phát triển ý thức công dân toàn cầu.

Ở cấp học này, các em phải đóng một khoản học phí. Để vào cấp học này các em phải trải qua một kỳ thi tuyển và theo luật hiện nay thì việc tuyển chọn có thể dựa vào kết quả 3 năm ở trung học cơ sở và kỳ thi tuyển đầu vào. Một số trường tư tự chủ về tài chính có quyền đề ra mức học phí và tuyển chọn học sinh của riêng mình. Năm 2002 có 99,5% học sinh trung học cơ sở gia nhập trung học phổ thông. Có 6 thành phố và 6 tỉnh lớn thực hiện tuyển chọn học sinh chỉ căn cứ vào các thành tích, kết quả học tập ở cấp học dưới. Riêng 3 tỉnh Gyeonggi, Jeonbuk và Gyeonbuk thực hiện tuyển sinh theo cả 2 tiêu chí (kết quả ở cấp học dưới và điểm thi tuyển đầu vào), trong khi Ulsan thực hiện duy nhất hình thức thi tuyển đầu vào.

Trung học phổ thông ở Hàn Quốc bao gồm: THPT thông thường; THPT dạy nghề; THPT Nông nghiệp; THPT Kỹ thuật; THPT Thương mại; THPT Nghề cá và Hải dương học; THPT Kinh tế gia đình và thương mại; THPT dạy nghề và hỗn hợp.

C. Trung học khoa học (tài năng) 2 năm

Cho đến nay, có 16 trường trung học khoa học trên cả nước. Các trường này được thành lập nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu học tập nghiên cứu của các tài năng trẻ và những lĩnh vực ưu tiên của quốc gia nhằm khám phá khoa học và công nghệ tiên tiến. Chương trình học kéo dài 2 năm.

D. Trung học chuyên ngành

Đây là các trường được thành lập với những ngành học đặc thù như: trung học ngoại ngữ, trung học nghệ thuật, trung học thể dục thể thao. Các trường này dành cho các học sinh có năng khiếu đặc biệt về các lĩnh vực như ngoại ngữ, văn nghệ, thể thao. Ai cũng có thể xin vào trường này nhưng chỉ có những người có năng khiếu thực sự mới được tiếp nhận. Vì vậy, các tiêu chuẩn để được tuyển vào các loại trường này là rất đa dạng và đòi hỏi phải đáp ứng được những yêu cầu riêng của từng trường.

6. Giáo dục sau phổ thông trung học

A. Thực trạng

B. Đại học

Các định hướng cho giáo dục đại học:

– Phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục sau PTTH thông qua đa dạng hoá và chuyên môn hoá giáo dục đại học.

– Nâng cao quyền tự chủ và trách nhiệm của giáo dục đại học.

– Đổi mới về quản lý và cơ cấu giáo dục đại học.

– Tạo môi trường làm việc tốt cho các hoạt động nghiên cứu và học tập.

– Mở rộng phạm vi giáo dục đại học nhằm đáp ứng được nhu cầu xã hội về học tập thường xuyên (bất cứ lúc nào và ở đâu).

– Toàn cầu hoá giáo dục đại học.

C. Trung cấp, cao đẳng

Các trường này đào tạo ra các kỹ thuật viên bậc trung, thời gian học là 2-3 năm, hiện có 158 trường trên cả nước (2003). Các học sinh tốt nghiệp THPT có thể nộp đơn vào các trường trung cấp và cao đẳng này. Chương trình đào tạo của trường được phối hợp với các nhà máy, cơ sở sản xuất để sinh viên có thể vừa học vừa hành.

D. Giáo dục sau đại học (thạc sĩ, tiến sĩ)

Đây là chương trình đào tạo chuyên sâu sau đại học, nhằm đáp ứng nhu cầu tiếp tục nghiên cứu khoa học và đào tạo ra những nhà khoa học hàng đầu về một lĩnh vực khoa học cụ thể nào đó, …Thời gian đào tạo, đối với bậc Thạc sĩ là từ 1-2 năm, và Tiến sĩ là 3 năm.

Hiện có 142 trường đào tạo sau đại học, 106 trường chuyên nghiệp sau đại học …

7. Giáo dục đặc biệt

Đây là loại trường dành cho những học sinh khuyết tật. Chương trình giảng dạy bao gồm đào tạo về y tế, dạy nghề thông qua các phương pháp hướng dẫn và phương tiện nghe nhìn đặc biệt nhằm đáp ứng những yêu cầu đặc biệt của học viên. Hiện có 137 trường loại này, với tổng số 24.192 học viên.

Nguồn: chúng tôi sưu tầm

TỔ CHỨC GIÁO DỤC VÀ NHÂN LỰC QUỐC TẾ THUẬN PHÁT 

Địa chỉ : Số 15 Ngõ 7 Nguyễn Khả Trạc, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội

Email: duhocthuanphat@gmail.com

Website: www.thuanphat.edu.vn