Học Tiếng Hoa Ở Trường Trần Bội Cơ / Top 10 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Theolympiashools.edu.vn

Phòng Giáo Dục Đào Tạo Quận 5 Trường Thcs Trần Bội Cơ

Trong đó, nữ: 12 HS. Tỉ lệ: 0,44 %.

+ Lớp 6: so đầu năm số HS giảm: 3 HS. Tỉ lệ: 0,45 %. Trong đó, nữ: 1 HS

+ Lớp 7: so đầu năm số HS giảm: 0 HS. Tỉ lệ: 0,00 %. Trong đó, nữ: 0,0 HS

+ Lớp 8: so đầu năm số HS giảm: 8 HS. Tỉ lệ: 1,13 %. Trong đó, nữ: 4 HS

+ Lớp 9: so đầu năm số HS giảm: 0 HS. Tỉ lệ: 0,00 %. Trong đó, nữ: 0,0 HS

II.- CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ

Đẩy mạnh việc thực hiện “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” bằng chương trình hành động cụ thể của mỗi giáo viên. Thông qua việc vận dụng 20 điều giáo viên cần biết và 6 điều giáo viên không được làm tại điều 35 luật giáo dục.

Công tác bồi dưỡng nhận thức chính trị được tiến hành thường xuyên qua các buổi họp hội đồng sư phạm và hội thảo, vận động 100% giáo viên tham gia các cuộc sinh hoạt chính trị và tham gia các hoạt động xã hội…

Tiếp tục triển khai cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” do Nhà nước và Ngành giáo dục phát động.

Tạo môi trường học tập trong nhà trường: Luôn nhẹ nhàng, thân thiện và đạt hiệu quả cao trong việc “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.

Thực hiện tiêu chí “Giáo dục nhân cách đạo đức lối sống cho học sinh”, xây dựng “trường tiên tiến hiện đại, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc”.

Thực hiện cuộc vận động “Dân chủ – Kỷ cương – Tình thương – Trách nhiệm”.

Thực hiện 3 công khai: Chất lượng đào tạo- đội ngũ giáo viên – CSVC, thu chi.

Thực hiện 4 kiểm tra: Sử dụng ngân sách, thu chi học phí, các khoản đóng góp tự nguyên và tổ chức nhà trường; thực hiện chương trình kiên cố hóa trường, lớp.

Thực hiện trang phục đúng qui định, trường học không thuốc lá.

Gắn việc thực hiện các cuộc vận động và các phong trào thi đua của ngành với đặc thù của trường; nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, tạo sự chuyển biến tích cực và rõ nét về chất lượng dạy học và giáo dục học sinh, lồng ghép vào giảng dạy một số môn học chính khóa và hoạt động ngoài giờ lên lớp.

Tổ chức tuyên dương, khen thưởng nhằm động viên, nêu gương trong toàn trường giáo viên và học sinh có ý thức tự học, tự rèn, sáng tạo trong giảng dạy và học tập.

Tiếp tục triển khai chủ trương “Đổi mới toàn diện nhà trường” (đổi mới cơ chế tổ chức, công tác quản lý, phương pháp giảng dạy và học tập…).

III.- HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN :

1. Tình hình thực hiện chương trình:

Trong năm học trường tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình giáo dục theo hướng tích hợp, gọn nhẹ nhằm tạo điều kiện cho học sinh tự tìm tòi, tự học; thực hiện có hiệu quả phương pháp giáo dục; chuyển từ “dạy số đông” sang “dạy cá thể”; giảm lý‎ thuyết, tăng thực hành; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ đổi mới phương pháp dạy và học, xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực; đổi mới mạnh mẽ công tác kiểm tra, đánh giá.

Thực hiện đúng, đủ chương trình cho các khối lớp 6,7,8,9.

Họp nhóm và họp tổ chuyên môn bàn kế hoạch giảng dạy theo chuẩn kiến thức và kỹ năng, thực hiện chương trình giảm tải, cách sử dụng đồ dùng dạy học trong từng tiết và tổ chức các tiết thực hành theo phân phối chương trình. Số tiết sử dụng đồ dùng dạy học là 8,054 tiết, số tiết thực hành thí nghiệm là 260 tiết, giáo viên đã tự làm 208 đồ dùng dạy học.

Giáo viên nắm bắt nhanh phương pháp giảng dạy mới, ứng dụng tốt công nghệ thông tin vào giảng dạy, nhiều giáo viên sử dụng thành thạo chương trình PowerPoint, bảng tương tác, đã sử dụng 580 tiết bài giảng điện tử. Thực hiện cải tiến phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh, rút kinh nghiệm và phát hiện những em Hs lười học, vi phạm kỷ luật nhằm ngăn chặn Hs bỏ học.

Thực hiện lồng ghép giáo dục về Di sản văn hóa, giáo dục tư tưởng, tình cảm qua các bài giảng lồng ghép vào cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Tổ chức bán trú cho một số lớp ở các khối 6,7,8,9: Tăng cường các tiết cho các bộ môn Văn, Toán, Anh, Lý, Hóa và ngoại khóa Thể dục, xem phim các bộ môn khoa học xã hội và tự nhiên. Công tác này đáp ứng được yêu cầu của phụ huynh đi làm cả ngày, song còn nhiều bất cập do cơ sở vật chất chưa được khang trang. Mặc dù nhà trường hết sức cố gắng thu xếp phòng học nhưng chỗ ăn ngủ của học sinh buổi trưa chưa được như mong muốn.

Tổ chức giảng dạy tăng cường tiếng Hoa với 8 lớp trong 4 khối 6,7,8,9, đáp ứng được nhu cầu học tiếng Hoa cho con em người Hoa và một số học sinh người Việt. Tuy nhiên chương trình khá nặng (học cả tiếng Hoa và tiếng Anh) nên còn hạn chế kết quả ở một số học sinh do khả năng tiếp thu kém. Giáo viên thỉnh giảng: 1, biên chế: 2. Thuận lợi: việc soạn giảng bằng Power Point. Việc giảng dạy tổng hợp được kiến thức liên môn – có nhiều thời gian đầu tư cho những bài nội dung trọng tâm trong chương trình. Khó khăn là đồ dùng dạy học chưa đồng bộ, băng đĩa nghe không nhiều. Vì là môn tăng cường nên các em còn lơ là trong việc học. Thời gian học phải phụ thuộc vào các môn học chính trên lớp.

Tổ chức giảng dạy tăng cường tiếng Anh với 4 lớp của khối 6 và 7, đáp ứng yêu cầu các lớp tăng cường tiếng Anh từ các trường tiểu học trong quận và ngoài quận. Môn tăng cường tiếng Anh có thuận lợi là được phụ huynh đặc biệt quan tâm. Giáo viên đã áp dụng phương pháp và kỹ thuật dạy học bốn mức độ kỹ năng cho HS để vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.

Giáo viên Nhạc tổ chức cho các em HS nghe và tập hát các bài “Sử ca học đường” vào các tiết học môn Nhạc và sinh hoạt tập thể.

Áp dụng các câu hỏi mở, câu hỏi vận dụng, câu hỏi liên hệ với thực tiễn cuộc sống trong các bài kiểm tra thường xuyên và định kỳ. Đa dạng hoá các hình thức kiểm tra: Có kiểm tra đánh giá kỹ năng thực hành của học sinh ngoài các bài kiểm tra định kỳ trên lớp.

Triển khai các chuyên đề tập huấn và phổ biến cho các Tổ, Nhóm về nội dung đổi mới sinh hoạt chuyên môn, chú trọng đến việc trao đổi kinh nghiệm giảng dạy các bài học khó, nội dung học BDTX và các địa chỉ mail và bảng tin nhà trường.

2. Về tổ chức dạy nghề phổ thông, hoạt động giáo dục hướng nghiệp, GDNGLL.

Trường đã tổ chức các lớp nghề cho học sinh. 100% HS khối 8 được học nghề với các môn như: Điện, nấu ăn, thủ công mỹ nghệ. Chương trình dạy nghề phổ thông theo nội dung giảng dạy của Bộ giáo dục.

3. Thực hiện qui chế chuyên môn tại các trường THCS:

4. Ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học

5. Hoạt động ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo, Khóa học ngoài nhà trường, giáo dục toàn diện cho học sinh:

6. Các hoạt động nâng cao chất lượng dạy và học:

Tổ chức 4 tiết thao giảng cấp trường và 1 tiết cấp quận

Phụ huynh thường xuyên nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện ở trường, lớp của con; trên cơ sở đó hỗ trợ con em phát huy các diểm tốt hoặc kịp thời ngăn chặn, điều chỉnh, sửa chữa các hạn chế trong học tập, rèn luyện.

Công tác GVCN là định hướng, trao đổi, nắm bắt tình hình HS và phụ huynh lớp chủ nhiệm để đề ra biện pháp giáo dục tốt nhất!

7. Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học.

Thay cổng lối ra vào học sinh

Lắp đặt lưới thép hành lang lầu 2, 3, 4, 5

Lắp đặt đường ống thoát nước mái tôn khu A

Lắp đặt 2 hệ thống lọc nước uống học sinh tại lầu 3, 5 khu B

Sửa chữa cải tạo phòng nhạc số 3

Làm khung sắt sân thượng lầu 3, xây dựng kế hoạch làm vườn sinh học

Kiểm tra thay mới đèn, quạt, đồng hồ điện bị hư ở các phòng học + sửa chữa nhỏ khác…

Trường Thpt Trần Cao Vân

Tiếng lóng là một thực tế đầy sinh động mà hầu nhu bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có, dù muốn hay không. Văn hào Victor Hugo (1802-1885) từng chú ý sử dụng tiếng lóng trong tác phẩm Ngày cuối cùng của một tử tù (Le dernier jour d’un condamné; 1828); thậm chí còn dành hẳn cả quyển VII trong phần thứ tu của bộ tiểu thuyết đồ sộ nổi tiếng Những nguời khốn khổ (Les Misérables; 1861) để bàn riêng về tiếng lóng. Ðây là những nhận định của Victor Hugo: “Tiếng lóng là gì? Là quốc gia, đồng thời là quốc âm; đó là sự đánh cắp duới hai hình thức: nhân dân và ngôn ngữ. Tiếng lóng vừa là một hiện tuợng văn học vừa là một kết quả xã hội. Tiếng lóng, căn bản là gì? Là ngôn ngữ của tiếng lóng khốn cùng. Mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi ngẫu nhiên của hệ thống xã hội và hết thảy các hình thức của trí tuệ, đều có tiếng lóng của nó. Về phuơng diện thuần túy văn học, nghiên cứu tiếng lóng có thể kỳ thú hơn nhiều khoa học khác…”. Ngày nay, phần lớn giáo trình ngôn ngữ học đại cuơng, tiếng lóng là nội dung không thể thiếu đối với chuyên đề từ vựng học. Trong các hội nghị, hội thảo khoa học – nhu hội nghị “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ” đuợc tổ chức quy mô vào cuối tháng 10-1979, một số báo cáo nghiên cứu về tiếng lóng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nguời. Cho đến nay, tồn tại lắm định nghĩa, cách phân loại và đánh giá khác nhau về tiếng lóng.

Tiếng lóng (Hán: lí ngữ; Pháp: argot, Anh: slang cant/jargon) đuợc Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (1992) cắt nghĩa: “Cách nói một ngôn ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm nguời nào đó, nhằm chỉ để cho trong nội bộ hiểu đuợc với nhau mà thôi”. Từ điển Petit Larousse illustré (1973) định nghĩa tiếng lóng: “Từ vựng riêng biệt của một nhóm, một nghề hoặc một giai tầng xã hội”. Hiện đại Hán ngữ từ điển xuất bản ở Bắc Kinh (Trung Quốc -1998) giải thích về li yu (lí ngữ); “Những phuơng ngôn thô tục hoặc luu hành hạn hẹp”. Advanced learner’s English dictionary (1993) viết về tiếng lóng: “Các từ, cụm từ rất thân mật, không nghi thức, thuờng dùng trong lời nói, nhất là giữa những nguời cùng một nhóm xã hội, làm việc cùng nhau và không đuợc xem là thích hợp cho những bối cảnh nghi thức, cũng nhu chẳng thể sử dụng lâu dài”. Qua loạt định nghĩa vắn gọn và phổ thông ấy, một số yếu tố của tiếng lóng đã bộc lộ:

1. Ðây là loại khẩu ngữ đặc thù dùng để giao tiếp phi chính thức trong một phạm vi xã hội hạn chế.

2. Hoàn toàn thuộc lĩnh vực từ vựng và có tính chất lâm thời, bất ổn định. Tuy nhiên, các từ điển vừa dẫn đã không phân biệt tiếng lóng với biệt ngữ và tiếng nghề nghiệp. Giáo su Ðỗ Hữu Châu biên soạn Giáo trình Việt ngữ (Tập II: Từ hội học – NXB Giáo dục 1962) cho rằng: “Tiếng lóng (argot des déclassés) bao gồm một số từ bí hiểm để che dấu tu tuởng của nguời nói, không cho nhiều nguời ngoài tập đoàn xã hội của mình biết”. Cũng Giáo su Ðỗ Hữu Châu, qua giáo trình Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt (NXB Giáo dục 1981), lại chỉ ra: “Tiếng lóng bao gồm các đơn vị từ vựng thuộc loại thứ hai trong các biệt ngữ, tức là những tên gọi “chồng lên” trên những tên gọi chính thức. Hiện tuợng tiếng lóng là phổ biến đối với mọi tập thể xã hội. Hầu nhu tất cả các tập thể xã hội nào đã có cái gì chung về sinh hoạt hay về sản xuất, làm việc… thì đều có những tiếng lóng của riêng mình. (…) Do nhiều động lực khác nhau, nhu do ý muốn “tự bộc lộ” cái vẻ riêng của tập thể mình, do muốn gây đuợc những sự chú ý đặc biệt, muốn che giấu những điều mà những nguời ngoài tập thể không nên biết, muốn biểu thị thái độ một cách mạnh mẽ… mà hằng ngày hằng giờ trong các tập thể xã hội đều xuất hiện tiếng lóng. Những tiếng lóng này rất “phù du”, không hệ thống, lẻ tẻ, xuất hiện rồi mất ngay”. Một số nhà nghiên cứu nhu Luu Vân Lăng (1960), Hoàng Thị Châu (1989)… liệt tiếng lóng vào loại không lấy gì làm tốt đẹp vì phạm vi luu hành “là trong đám nguời làm những nghề bất luơng, bị xã hội ngăn cấm nhu bọn cờ bạc bịp, bọn ăn cắp, bọn buôn lậu”. Sách Ngôn ngữ học: khuynh huớng – lĩnh vực – khái niệm của nhiều tác giả (NXB Khoa học Xã hội 1994) còn khẳng định: “Khác biệt ngữ, tiếng lóng có nghĩa xấu”.

Thực tế thì ở một số truờng hợp, ranh giới giữa tiếng lóng với biệt ngữ và tiếng nghề nghiệp khó phân lập rạch ròi. Do đó, nhà nghiên cứu Da Zhaomin của Trung Quốc (1996) đề xuất cách gọi khác: ấn ngữ / ám ngữ / hắc thoại. Tác giả này lại chia ra hai loại lớn, gọi là “ẩn ngữ nghề nghiệp” và “ẩn ngữ giang hồ”. Nếu thế thì cũng chua lấy gì làm rành mạch!

Một thực tế nữa: chua hẳn tiếng lóng “chỉ thuộc bọn nguời xấu”, là “ngôn ngữ duới đáy xã hội”. Giáo su Ðỗ Hữu Châu từng nêu thí dụ về tiếng lóng của giới sinh viên một thời, nhu mẹ đốp nhằm trỏ các nữ sinh đáo để, nhuận sắc có nghĩa là “đẹp một cách tuơi mát”, ngỗng để chỉ điểm hai, gậy – điểm 1…

Tùy quan niệm rộng hẹp mà có những cách nhìn nhận khác nhau về tiếng lóng đối với công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt hiện nay.

Tiếng lóng với ngôn ngữ toàn dân

Một quan điểm cho rằng tiếng lóng là hiện tuợng không lành mạnh trong ngôn ngữ, nó chỉ tồn tại ở xã hội có giai cấp và mất dần đi, vì vậy phải triệt để chống tiếng lóng và kiên quyết gạt nó ra khỏi ngôn ngữ văn hóa. Ðó là ý kiến của Nguyễn Văn Tu và Nguyễn Kim Thản… trình bày qua các ấn phẩm Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại (NXB Ðại học và Trung học Chuyên nghiệp 1976) hoặc Tiếng Việt trên đuờng phát triển (NXB Khoa học Xã hội 1982). Hãy đọc một đoạn trong tài liệu vừa dẫn đề cập đến tiếng lóng; “…không có tác dụng tích cực, không làm giàu thêm ngôn ngữ toàn dân” (tr.188)

Quan điểm khác thì đề nghị chấp nhận những tiếng lóng tốt, tích cực, nhằm bổ sung cho ngôn ngữ toàn dân. Ðó là ý kiến của Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh… phát biểu trong hội nghị “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ” đuợc tổ chức tại Hà Nội năm 1979. Ðồng quan điểm ấy, Nguyễn Thiện Giáp soạn sách Từ vựng học tiếng Việt (NXB Ðại học và Trung học Chuyên nghiệp 1985) đã đặt tiếng lóng trong mối quan hệ với toàn bộ lớp từ tiếng Việt rồi cho rằng: Chỉ nên lên án những tiếng lóng “thô tục”; còn loạt tiếng lóng “không thô tục: là tên gọi có hình ảnh của sự vật, hiện tuợng nào đó thì có khả năng phổ biến và thâm nhập dần vào ngôn ngữ toàn dân. Sách này còn chỉ ra rằng tiếng lóng chính là một phuơng tiện tu từ học đuợc dùng để khắc họa tính cách và miêu tả hoàn cảnh sống của nhân vật trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Ðây cũng chính là điều mà nhiều nhà nghiên cứu về tu từ học (rhétorique) về phong cách học (stylistique), cũng nhu nhiều cây bút văn chuơng, báo chí quan tâm tìm hiểu và vận dụng.

Học giả Nguyễn Hiến Lê rất có lý khi cho rằng một trong những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều của Nguyễn Du chính là lời thoại độc địa phát ra từ miệng Tú Bà lúc mụ “Nổi tam bành mụ lên” truớc Thúy Kiều:

Này này sự đã quả nhiên Thôi đà cuớp sống chồng min đi rồi! Bảo rằng đi dạo lấy nguời Ðem về ruớc khách kiếm lời mà ăn Tuồng vô nghĩa ở bất nhân Buồn mình truớc đã tần mần thử chơi Màu hồ đã mất đi rồi Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma! Con kia đã bán cho ta Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây Lão kia có giở bài bây Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe Cớ sao chịu tốt một bề Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!

Có thể tìm thấy trong đoạn lục bát đó ngồn ngộn tiếng lóng của giới “buôn phấn bán son” ở xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 19: đi dạo, ruớc khách, buồn mình, màu hồ, bài bây… Ví nhu thay loại từ ấy bằng chữ nghĩa “nghiêm chỉnh”, ắt đoạn văn không chỉ mất hay mà còn hỏng nặng!

Tuơng tự nhu thế, nếu không tích lũy vốn tiếng lóng phong phú để sử dụng phù hợp, thì bao phóng sự và tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng (1912-1939) làm sao cuốn hút độc giả. Từ thiên phóng sự Cạm bẫy nguời viết năm 1933, nhà báo – nhà văn Vũ đã “đua ra ánh sáng” cả lô tiếng lóng tồn tại trong giới cờ bạc bịp thời đó: mòng, mẻng, bắt, viên đạn, hòn đạn, của, lộ tẩy, cản, quýnh… Ðến các tác phẩm Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Số đỏ (1936), Làm đĩ (1936), Lục xì (1937)… thì Thiên Hu Vũ Trọng Phụng trình thêm vô số “ẩn ngữ giang hồ” mà công chúng bình thuờng bấy giờ khó biết nổi: chạy làng, chánh, chúa, hao đào, ngày phiên, trô, xé giấy… Một tiểu thuyết nổi tiếng cũng vào giai đoạn ấy là Bỉ vỏ của Nguyên hồng (1918-1982) đuợc xem đã chứa đựng một luợng lớn tiếng lóng, từ tiêu đề cho đến nội dung, với nhiều câu mà bạn đọc hẳn chua quên:

Anh đây công tử không vòm.

Ngày mai kện rập biết mòm vào đâu?

Trong số tiếng lóng thời kỳ qua, giờ dây có bao nhiêu đơn vị từ vựng trở thành quen thuộc và đi vào ngôn ngữ phổ thông? Chắc chắn không ít. Giáo su Ðỗ Hữu Châu từng trung dãn cả loạt tiếng lóng đuợc chấp nhận vào vốn từ ngữ chung: ba hoa, lộ tẩy, nguội điện, cổ lỗ sĩ, gạo, phe phẩy… Các tác giả sách Tiếng Việt trên đuờng phát triển (sđd, tr.188) cũng ghi nhận những tiếng lóng đã hội nhập vào ngôn ngữ toàn dân: quay cóp, móc ngoặc, phớt lờ… Tra cứu các từ điển tiếng Việt hiện đại, chúng ta còn phát hiện bao tiếng lóng từng hiện hữu trong quá khứ.

Tiếng Việt, cũng nhu các ngôn ngữ khác, luôn cần đuợc cộng đồng sử dụng cố gắng gìn giữ sự trong sáng đồng thời với việc tích cực phát triển. Nói cách khác, phát triển vừa là nguyên nhân, vừa là mục đích trong công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Theo quy luật chung, phát triển mạnh nhất luôn là từ vựng. Ðóng góp vào khía cạnh này, rõ ràng có tiếng lóng. Sau một thời gian tồn tại chính thức, bất ổn định trong một phạm vi xã hội hạn hẹp, biết bao tiếng lóng sẽ không còn là… tiếng lóng. Hoặc chúng biến mất. Hoặc chúng trở thành đơn vị từ ngữ của toàn dân, đuợc mọi nguời sử dụng rộng rãi, không chỉ tồn tại trong các tác phẩm văn chuơng báo chí, hoặc trên màn bạc, màn nhung, mà còn xuất hiện cả ở nhiều văn bản hành chính. Từ xì ke, xuất xứ bởi tiếng lóng scag, là một ví dụ.

Quanh một từ điển tiếng lóng

Ði vào nội dung từ điển tiếng lóng của Nguyễn Văn Khang, bạn đọc có hiểu biết ít nhiều về lĩnh vực này ắt không tránh khỏi thất vọng vì cách biên soạn thiếu khoa học. Buồn cuời nhất là tồn tại khá lớn tiếng lóng bị định nghĩa… sai! Trong một ý kiến ngắn đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật 24-6-2001, Bùi Cát đã sơ bộ chỉ ra chín đơn vị từ vựng mà từ điển này cắt nghĩa trật lất: khâu chẳng phải “cây vàng” (lạng/luợng vàng); nhạc sến chua hẳn “nhạc buồn”; tài pán không phải “chủ chứa”; mắt trừu không phải “bao cao su tránh thai”; hết xí quách không có nghĩa “hết tiền”; mặt rô (maquereau/ma cô) cũng chua chắc “dân giang hồ, dao búa”; còn bà già không phải chỉ mọi loại “máy bay cánh quạt”.

Có thể trung dẫn thêm cả lô tiếng lóng đã bị từ điển này định nghĩa hoặc chua đầy đủ, hoặc nhầm lẫn đến mức… phi thực! Từ ái chẳng hạn, đâu chỉ là “con trai có tính cách, cử chỉ, điệu bộ rụt dè (sic!) nhu con gái”. Thế con gái cũng bị gọi ái thì sao? Chẳng qua, đấy là rút gọn cụm từ “ái nam ái nữ”, dùng để chỉ truờng hợp luỡng giới tính (bisexual), có khi còn đuợc hiểu là đồng tính ái (homosexual). Tiếng lóng đó cũng đồng nghĩa gai/ bóng / pê-đê / bê-đê (do chữ gay hoặc pédérastre, chỉ đồng tính ái nam); chứ bê-đê không phải là “giật đồng hồ” (tr.65). Giới “xã hội đen” thuờng gọi hành động giật đồng hồ bằng các tiếng lóng thổi đổng hoặc bốc hồ / múc hồ / tát hồ… Từ bắt dế cũng đâu chỉ có nghĩa “chép tài liệu vào miếng giấy nhỏ quấn lại bằng con dế mang vào phòng thi” (tr.63) mà còn là hành động nhặt tàn thuốc lá. Từ chặt hẻo chẳng phải chỉ mọi hình thức “chơi bài ăn tiền”, mà là cách gọi một lối chơi với bộ bài tây: tiến lên. Chứ đánh xì phé, binh xập xám… dù ăn tiền hay không, chẳng ai gọi là chặt hẻo cả. Hàng tiền đạo có nghĩa dãy răng cửa, chứ nào phải “hàm răng hơi bị vẩu”. Kết mô-đen không chỉ “quan hệ yêu đuơng” mà nói chung là thích, là khoái, là muốn. Mátximum đâu phải “nhậu hết cỡ”, mà là bất kỳ cái gì đạt tới nguỡng cực đại do chữ maximum (trái với minimum).

Từ điển lại ghi sai chính tả không ít từ ngữ, điều khó chấp nhận đối với loại sách dùng để tra cứu. Thí dụ nhu rụt dè (rụt rè), sui (xui/rủi) thấy mồ… Nhiều tiếng lóng bị ghi không đúng hình thức ngữ âm. Chẳng hạn bá chảy (bá cháy / bá chấy), chè nghim (chè ghim), đam chuột (đâm chuột)… Từ chè ghim vốn do nói lái từ “chìm ghe” mà có. Từ đâm chuột, tức đâm tí, nói lái chệch thành “đi tắm”. Do thiếu khảo sát kỹ về từ nguyên, đặc biệt là những tiếng lóng có nguồn gốc ngoại ngữ hoặc đuợc cấu tạo bởi phuơng thức nói lái, nên soạn giả chua đua đuợc lời giải thích đúng, đủ và có sức thuyết phục. Ðó là truờng hợp loạt từ đai, mo, xuya, bứt cỏ, chà đồ nhôm, hạ cờ tây…

Lại thấy ngồn ngộn trong từ điển bao đơn vị từ vựng lâu nay thuộc ngôn ngữ toàn dân, thậm chí đã đi vào văn chuơng, ai ai cũng biết, cũng hiểu, cớ sao soạn giả xếp vào kho tiếng lóng? Nhu các từ mây mua hoặc gò bồng đảo vốn là các điển cố mà bạn đọc quá quen thuộc qua thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Huơng… Hoặc loạt từ ngữ bình thuờng, chẳng mang nghĩa đặc biệt và bí hiểm gì cả, nhu ấm đầu, bà xã, bộ cánh, bộ đồ vía, của quý, gà mờ, keo (kiệt), bao (cao su), ô dù, phê, đã, quỹ đen, sa luới, sâu mọt, tồ, trồng cây si, viêm màng túi, vuợt cạn, xe ôm… mà cho là tiếng lóng e chua thích đáng.

Trong Việt ngữ hiện đại, tiếng lóng ngày càng có xu huớng phát triển mạnh, nhất là đối với giới trẻ ở các đô thị, tạo nên hiện tuợng mà các nhà nghiên cứu gọi là ngôn ngữ đuờng phố (street language). Hiểu biết và vận dụng tiếng lóng đạt mức độ cần thiết sẽ tạo nên những tác phẩm văn học, báo chí giá trị và có sức hấp dẫn. Jacques Prévert (1900-1977) ở Pháp là một minh chứng sinh động: thơ của ông đầy rẫy tiếng lóng, có tập đuợc xuất bản tới hàng triệu cuốn. Ðó là “hiện tuợng thi ca” vô tiền khoáng hậu, khiến mọi nguời suy nghĩ. Ngay đến việc dịch thuật, với những văn bản nhất định, cũng rất cần tiếng lóng. Tiểu thuyết The Godfather (Bố già) nổi tiếng của Mario Puzo đã đuợc nhiều nguời dịch ra tiếng Việt, song bản chuyển ngữ của Ngọc Thứ Lang đuợc xem thành công nhờ biết tìm đuợc nhiều tiếng lóng tuơng ứng.

Rõ ràng, không chỉ các cây bút viết lách, dịch thuật, mà nhiều ngành hoạt động khác (nhu kịch nghệ, phim ảnh, giáo dục, từ thiện xã hội, công an…) đều cần có từ điển tiếng lóng. Ðông đảo bạn đọc cũng cần để tra cứu cuốn sách, công cụ ấy bao giờ mới ra lò?.

VÕ NGÂN VƯƠNG

Các Khóa Học Tiếng Hoa Cơ Bản Ở Tphcm

CÁC KHÓA HỌC TIẾNG HOA CƠ BẢN Ở TPHCM

Trong thời buổi nền kinh tế hội nhập, học tiếng Hoa (tiếng Trung) là điều cần thiết để bạn nâng tầm bản thân. Có tiếng Hoa tốt sẽ giúp bạn có nhiều cơ hội hơn.

Nhưng để chọn một khóa học tiếng Hoa cơ bản ở TpHCM phù hợp là vấn đề không dễ. Do hiện nay, có rất nhiều khóa học cơ bản của nhiều trung tâm tiếng Hoa.

Vậy học tiếng Hoa ở đâu tốt? Hãy cùng tìm hiểu nhé!

Đối tượng nào nên tham gia khóa học tiếng Hoa cơ bản?

– Những người làm kinh doanh muốn mở rộng quan hệ hợp tác. Hay muốn giao thương với Trung Quốc hoặc các nước sử dụng tiếng Hoa. Mà đang gặp trở ngại về vấn đề ngôn ngữ.

– Các bạn học sinh, sinh viên đang có ý định đi du học tại các trường ở Đại học, cao đẳng ở Đài Loan, Trung Quốc,….Hoặc muốn có chứng chỉ ngoại ngữ 2 để tốt nghiệp ra trường đúng thời hạn.

– Các cá nhân muốn học tiếng Hoa cơ bản ở Tphcm để đi du lịch hay có thể là kết hôn với người Trung Quốc, Đài Loan.

– Các anh chị muốn thăng tiến trong công việc, tìm được một vị trí tốt hơn tại các công ty, doanh nghiệp Đài Loan, Trung Quốc,… đầu tư ở Việt Nam.

– Những người muốn đi xuất khẩu lao động. Hay chỉ đơn giản là bạn muốn tìm hiểu về nền văn hóa, phong tục tập quán của người Trung Quốc,…

– Hoặc bạn chỉ muốn học theo sở thích của cá nhân thì từ bây giờ nên tìm hiểu những khóa học tiếng Hoa cơ bản ở Tphcm ngay nhé!

Bộ giáo trình độc quyền cho khóa học tiếng Hoa cơ bản ở tphcm của SHZ

Các khóa học tiếng Hoa cơ bản ở Tphcm

Hiện nay, các khóa học tiếng Hoa tại các trung tâm tiếng Hoa ở Tphcm dành cho người học cơ bản rất đa dạng. Nhưng có thể tổng hợp lại các dạng như sau:

– Khóa tiếng Hoa giao tiếp cơ bản đến nâng cao cho người mới bắt đầu:

Khóa học này dành cho những bạn muốn học giao tiếp, không chú trọng chữ viết hay lấy chứng chỉ. Học khóa giao tiếp cơ bản cũng có thể thi chứng chỉ nếu bạn có luyện viết chữ Hán.

– Khóa học tiếng Hoa giao tiếp cấp tốc:

Dành cho những bạn muốn học nghe nói nhanh, muốn giao tiếp ngay. Đối với những khóa cấp tốc này bạn nên cân nhắc đầu tư thời gian phù hợp, vì thường sẽ học 4-5 buổi/ tuần.

– Khóa học tiếng Hoa cơ bản ở Tphcm để thi lấy bằng HSK:

Đây là khóa tiếng Hoa tổng hợp (tổng quát 4 kỹ năng) sẽ chú trọng 4 kỹ năng nghe nói đọc viết. Giúp người học có được nền tảng tiếng Hoa tốt để thi chứng chỉ.

– Khóa tiếng Hoa dành cho thiếu nhi (5-10 tuổi), thiếu niên (10-15 tuổi)

Các khóa học tiếng Hoa đặc biệt khác

– Khóa học tiếng Hoa ở tại nhà với dịch vụ gia sư dạy kèm tiếng Hoa. Hoặc học bất kỳ đâu với khóa tiếng Hoa online.

– Khóa học tiếng Hoa cho nhân viên doanh nghiệp/công ty học tại công ty theo chương trình thiết kế riêng

Nếu bạn cần thêm thông tin về các khóa học tiếng Hoa cơ bản ở Tphcm, vui lòng gọi hotline 028 7106 6262 để được tư vấn miễn phí!

Hoặc điền form thông tin bên dưới để Tư vấn viên liên hệ lại:

Tại sao nên chọn khóa học tiếng Hoa cơ bản ở Tphcm của trung tâm tiếng Hoa SHZ?

Hơn 17 năm chuyên đào tạo tiếng Hoa, SHZ đã tìm hiểu nhu cầu thực tế của nhiều học viên. Từ đó, thiết kế những khóa học tiếng Hoa cơ bản phù hợp, để học xong là ứng dụng ngay vào thực tế.

Đối với những bạn mới làm quen với tiếng Hoa, sẽ cảm thấy không ít khó khăn. Với phương pháp giảng dạy “Trải nghiệm niềm vui – Hiệu quả vượt trội” sẽ tạo động lực học tập.

Đây là phương châm mà SHZ giúp cho nhiều bạn tăng hứng thú và giữ đam mê với việc học tiếng Hoa cơ bản ở Tphcm.

SHZ cũng cam kết đầu ra theo tiêu chuẩn quốc tế để bạn dễ dàng hội nhập, tự tin giao lưu với bạn bè quốc tế.

Không khí lớp học tiếng Hoa cơ bản ở TPHCM của SHZ

Lộ trình học tiếng Hoa cơ bản tại SHZ

1. Tìm hiểu nhu cầu để tư vấn khóa học phù hợp

2. Giới thiệu nội dung chương trình học

3. Đưa ra kết quả cụ thể sau mỗi buổi học

4. Cam kết trình độ tương đương cấp độ HSK quốc tế sau mỗi khóa học.

Tag: học tiếng hoa, học tiếng hoa, học tiếng Hoa căn bản, học tiếng Hoa căn bản, khóa học tiếng hoa cơ bản, khóa học tiếng hoa cơ bản, học tiếng Hoa TPHCM, học tiếng Hoa TPHCM

Hotline: 028 7106 6262

Học Tiếng Hoa Cơ Bản Bài 12: Phòng Thử Đồ Ở Đâu ?

Phòng thử đồ ở đâu ?

Tiếp theo bài kỳ trước, chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn cách hỏi thăm địa điểm và những cụm từ thường dùng trong đời sống hàng ngày. Việc hỏi thăm địa điểm thì không khó khăn nhưng nếu như ta không học và biết nhiều về nó thì sẽ rất khó để nghe hiểu câu trả lời của đối phương.

Đàm thoại:

A: 不好意思,百货大楼在伆么地方? Bù hǎo yìsi, bǎihuò dàlóu zài shénme dìfang? Xin lỗi, cho tôi hỏi cửa hàng bách hóa ở đâu ?

B: 在前边。 Zài qiánbiān. Bạn cứ đi thẳng về phía trước sẽ thấy cửa hàng bách hóa đó.

A: 离这里近不近? Lí zhèli jìn bú jìn? Nó có gần đây không ?

B: 很近,你看,那个大楼就是。 Hěn jìn, nǐ kàn, nàge dàlóu jiùshì. Rất gần, chính là tòa nhà kia đó.

―Tại cửa hàng bách hóa.―

A: 请问,在哪里试衣服? Qǐngwèn, zài nǎli shì yīfu? Xin lỗi, cho tôi hỏi có thể thử đồ ở đâu thì được ?

C: 那边,有试衣间。 Nàbiān, yǒu shìyījiān. Ở đằng kia có phòng thử đồ.

A: 怎么走? Zěnme zǒu? Đi như thế nào thì đến được đó.

C: 往前走,就在收款台旁边。 Wǎng qián zǒu, jiù zài shōukuǎntái pángbiān. Bạn cứ đi thẳng đến máy tính tiền, phòng thử đồ nằm kế bên máy tính tiền đó.

Từ đơn:

百货大楼(bǎihuò dàlóu/名詞):Cửa hàng bách hóa地方(dìfang/名詞):Địa điểm, nơi chốn.前边(qiánbiān/名詞):Đằng trước, phía trước

※Với dạng sử dụng từ nối tiếp vị ngữ「边」thể hiện phương hướng cùng với danh từ 「前」_thể hiện phương hướng sẽ mang nghĩa ” Hướng phía trước” 离(lí/伇詞):Từ ~ ( Chỉ khoảng cách và thời gian)

※Thể hiện từ điểm khởi đầu đến một điểm nào đó (Tương đương với “From” trong tiếng Anh) 这里(zhèli/名詞):Ở đây, chỗ này. 近(jìn/形容詞):Gần

※Từ trái nghĩa là 「远(yuǎn)」:Xa 大楼(dàlóu/名詞):Tòa nhà, cao ốc. 就(jiù/伇詞): (Nhấn mạnh) lập tức, liền请问(qǐngwèn/動詞):Xin lỗi, tôi có chuyện muốn hỏi… (Dùng để hỏi một việc nào đó ) 试(shì/動詞):Thử làm ~(Tương đương với”Try” trong tiếng Anh )衣服(yīfu/名詞):Quần áo, trang phục那边(nàbiān/名詞):Chỗ kia

※Với thể sử dụng từ nối tiếp vị ngữ 「边」thể hiện phương hướng cùng với danh từ thay thế như ” Cái đó, cái kia” sẽ tạo ra ý nghĩa ” Hướng kia, chỗ kia” 试衣间(shìyījiān/名詞):Phòng thử đồ怎么(zěnme/伋名詞):Như thế nào, ra sao ( Giống với “How” trong tiếng Anh) 走(zǒu/動詞):Đi, đi đến 往(wǎng/伇詞):Hướng về ~ (Tương đương nghĩa với “toward” trong tiếng Anh) 前(qián/名詞):Trước ~ (thể hiện cả về không gian lẫn thời gian) ( tương đương với “front” (chỉ không gian) và “before” (thời gian) trong tiếng Anh)收款台(shōukuǎntái/名詞):Máy tính tiền

※Ngoài ra còn có nhiều cách gọi khác như 「收款处(shōukuǎnchù)」「收银台(shōuyíntái)」 旁边(pángbiān/数詞):Kế bên, ngay bên cạnh

※Thể câu có từ tiếp nối vị ngữ 「边」thể hiện phương hướng cùng danh từ chỉ phương hướng 「旁」sẽ tạo ra câu mang nghĩa ” Ngay bên cạnh”

Cụm từ cần chú ý thứ 1:Bắt đầu câu hỏi bằng cụm từ “Xin lỗi”

Cụm từ “Xin lỗi” được sử dụng trước khi bắt đầu hỏi đối phương vấn đề nào đó, được đặt ở đầu câu và được gọi là 「 请问(qǐngwèn)」 trong tiếng Hoa. ,”请” tương đương với “please” trong tiếng Anh.

Trong các giáo trình tiếng hoa, ngoài cách nói trên thì「 劳驾(láojià / xin lỗi)」 cũng thường được sử dụng, Tuy nhiên trong thực tế thì không được sử dụng nhiều. Cùng với nghĩa “Xin lỗi”, từ 「 不好意思(bù hǎo yìsi)」cũng được sử dụng rộng rãi. Từ này có nghĩa giống với “Xin lỗi ” trong tiếng Việt, so với nghĩa tạ tội thì nó được sử dụng với nghĩa áy náy khi làm phiền người khác.

Cụm từ cần chú ý thứ 2:Sử dụng từ 「就」để nhấn manh câu văn

「就(jiù)」là giới từ hay phó từ thường được sử dụng nhiều và ý nghĩa của nó cũng rất đa dạng. Ý nghĩa của nó sẽ tùy trường hợp và mạch văn mà khác nhau nên nếu như ta không nắm vững về tiếng hoa để biết cách sử dụng từ này thì ta sẽ không hiểu được ý nghĩa và cách dùng nó.

Trong bài đàm thoại đã xuất hiện hai mẫu câu như bên dưới:

那个大楼「就」是。(Chính là tòa nhà kia đó.)「就」在收款台旁边。(Ở ngay kế bên máy

Thu tiền.

Trong những trường hợp này thì nó tạo ra câu có nghĩa ” Chính xác là ~”, “~ chắc chắn là ~” để nhấn mạnh ý khẳng định

Vì vậy mà khi ta hay đổi hai câu trên nó sẽ trở thành ” Tòa nhà kia chính là cái đó”, “Chắc chắn là ở ngay bên máy thu tiền”

Ngữ pháp 1:Từ chỉ vị trí

Có rất nhiều từ dùng để thể hiện vị trí được xem là không thể thiếu trong đời sống.

Khi thêm từ 「边(biān)」「面(miàn)」vào trong danh từ thể hiện phương hướng hay danh từ thay thế, ta sẽ có:右边(yòubiān)・ 左边(zuǒbiān)―Bên phải・Bên trái前边(qiánbiān)・ 后边(hòubiān)―Đằng trước・Đằng sau东边(dōngbiān)・ 西边(xībiān)・ 南边(nánbiān)・ 北边(běibiān)―Hướng đông・Hướng tây・Hướng nam・Hướng bắc旁边(pángbiān)―Kế bên, bên cạnh对面(duìmiàn)―Đối diện

※Từ「边」và 「面」đều có nghĩa giống nhau nên những câu ví dụ đưa ra với từ 「边」đều có thể thay bằng từ 「面」. Tuy nhiên, ta lại không thể thay 「旁边」thành「旁面」và thay 「对面」thành「对边」

Ngữ pháp 2:Câu nghi vấn với dạng “V+不+V”

Các thuật ngữ như động từ và tính từ trong câu có thể thực hiện chức năng nghi vấn để nhấn mạnh ý khẳng định và phủ định

Ví dụ:你伆天来不来?(Nǐ jīntiān lái bù lái? / Hôm nay bạn có đến không ?)这个电影好不好?(Zhège diànyǐng hǎo bù hǎo? / Bộ phim này có thú vị không ?)这是不是你的书?(Zhè shì bú shì nǐ de shū? / Quyển sách này có phải của bạn không?)公司离这里远不远?(Gōngsī lí zhèli yuǎn bù yuǎn? / Công ty có xa nơi này không ?)

Những câu này có thể được thay bằng dạng câu ” Thể khẳng định của thuật ngữ+吗” (Tham khảo bài 1)

你伆天来吗?(Nǐ jīntiān lái ma?)这个电影好吗?(Zhège diànyǐng hǎo ma?)这是你的书吗?(Zhè shì nǐ de shū ma?)公司离这里远吗?(Gōngsī lí zhèli yuǎn ma?)

Nguồn: www.tienghoa.com.vn Bản quyền thuộc về: Trung tâm tiếng Hoa Chinese Vui lòng không copy khi chưa được sự đồng ý của tác giả

Phụ Huynh Hoa Mắt Trước Học Phí Trường Quốc Tế Ở Tphcm

Phải đóng học phí từ vài chục đến vài trăm triệu đồng/học kỳ, phụ huynh nào cũng tự hào nói con mình học quốc tế. Thế nhưng, bằng “mắt thường”, liệu phụ huynh có chọn đúng trường?

Tại TPHCM, hàng loạt trường ngoài công lập có vốn đầu tư nước ngoài, trường dạy chương trình nước ngoài, hay thậm chí chỉ là trường dạy hoàn toàn chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) Việt Nam tăng cường thêm tiếng Anh… được nhận diện thành trường quốc tế. Tuy nhiên, “quốc tế” trong khái niệm này thực chất giống với… dịch vụ quốc tế hơn. Bởi, thực tế làm gì có loại hình trường quốc tế như tên gọi được các trường gắn vào tên riêng như vậy. Theo Sở GD-ĐT TPHCM, căn cứ Nghị định 86/2023 của Chính phủ quy định về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục sẽ không có loại hình trường quốc tế.

Lâu nay, phụ huynh vẫn cứ ngộ nhận theo danh xưng quốc tế mà nhà trường tự phong. Mỗi năm đóng học phí mấy trăm triệu đồng cho con mà không hề hay biết trường con mình thuộc loại nào. “Đến khi dịch COVID-19 xảy ra, phụ huynh và nhà trường có tranh chấp học phí, giở luật ra mới vỡ lẽ chẳng có trường nào là trường quốc tế. Chỉ là quảng cáo. Trong khi, học phí trường con tôi hơn 200 triệu đồng/năm”, phụ huynh trường “quốc tế” tại Q.7 cho biết.

Tính đến thời điểm này, TPHCM chỉ có 11 cơ sở mầm non, 16 cơ sở giáo dục phổ thông nhiều cấp học “cộp mác” trường có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Theo Sở GD-ĐT TPHCM, có khoảng 12.000 học sinh đang theo học tại các trường này, chủ yếu là con em người nước ngoài và một tỷ lệ nhỏ con em người Việt Nam theo học. Đó là chưa kể, khi thành lập có trường có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy chứng nhận đầu tư đàng hoàng, giảng dạy chương trình nước ngoài, nhưng sau một thời gian hoạt động lại chuyển nhượng toàn bộ cho người Việt Nam. Có trường thì hoàn toàn “made in Vietnam” nhưng sau đó thì bán hết cho nước ngoài đầu tư.

Trong báo cáo mới đây gửi UBND chúng tôi lãnh đạo Sở GD-ĐT TPHCM cho biết, tại TPHCM chỉ có sáu cơ sở giáo dục được Bộ GD-ĐT phê duyệt thực hiện chương trình tích hợp (liên kết giáo dục). Đó là trường tiểu học – trung học cơ sở – trung học phổ thông (TH-THCS-THPT) Vinschool, Quốc tế Bắc Mỹ, Tây Úc, Việt Úc, Albert Einstein và Trường mầm non Vinschool tại Q.Bình Thạnh. Trong đó, có ba đơn vị đã thực hiện từ năm học này, còn ba đơn vị từ năm học sau mới triển khai.

Điều này cho thấy, đa phần học sinh Việt Nam đang theo học trường quốc tế hiện nay không chắc là “quốc tế”. Thực tế, cũng khó trách phụ huynh không phân biệt được đâu là trường “quốc tế” chính hiệu, bởi chính nhà quản lý cũng gặp khó khăn. Trước khi Nghị định 86 ra đời, suốt một giai đoạn dài trước đó, trường được định danh là quốc tế mọc lên nhiều vô kể và “lịch sử” để lại cho đến nay.

TPHCM có bốn cơ sở giáo dục thuần Việt Nam thực hiện giảng dạy chương trình nước ngoài được Bộ GD-ĐT chấp thuận về mặt nguyên tắc trước khi Nghị định 86 ra đời. Đó là: Trường THCS-THPT quốc tế APU dạy chương trình phổ thông Hoa Kỳ (toán, khoa học, tiếng Anh, vật lý), học sinh Việt Nam sẽ học thêm tiếng Việt, lịch sử, địa lý, văn hóa Việt Nam; Trường TH-THCS-THPT quốc tế Sài Gòn Pearl dạy chương trình Bộ Giáo dục Bang New York (học sinh Việt Nam học thêm tiếng Việt, đạo đức, lịch sử…); Trường TH-THCS-THPT quốc tế Canada dạy chương trình Bang Ontario, Canada và chương trình tú tài quốc tế; Trường TH-THCS-THPT quốc tế Mỹ dạy chương trình tú tài quốc tế IBO.

Điều đáng nói là Bộ GD-ĐT không quy định thời gian thí điểm nên đến nay các trường vẫn tiếp tục tuyển sinh và dạy chương trình thí điểm. Theo Sở GD-ĐT, điều này gây khó khăn cho quản lý. Và tất nhiên, người học thì càng không thể thông thạo được bằng nhà quản lý. Mới đây, ông Lê Hồng Sơn, Giám đốc Sở GD-ĐT chúng tôi đề xuất UBND chỉ đạo cụ thể đối với thực hiện của các chương trình thí điểm do Bộ GD-ĐT cấp phép.

HỌC PHÍ “KHỦNG” CỦA CÁC TRƯỜNG QUỐC TẾ TẠI TPHCM

Mức học phí của các trường “quốc tế” (có yếu tố nước ngoài) chắc hẳn khiến nhiều người phải “choáng”. Có trường, học sinh phải đóng hơn nửa tỷ đồng cho một năm học. Đó là chưa kể phí tuyển sinh, phí giữ chỗ ở những trường này thường có giá từ vài chục đến hơn trăm triệu đồng.

Trường Quốc tế TPHCM (ISHCMC) dạy từ bậc mầm non đến lớp 12. Trong đó, học sinh lớp 6-10 học bậc trung học chương trình tú tài quốc tế. Học phí cho lớp 6-8 là 649,9 triệu đồng. Học sinh lớp 9, 10 đóng 679,6 triệu đồng. Trong khi lớp 11, 12 đóng 775,3 triệu đồng.

Trường Quốc tế Anh (BIS) thu học phí 637,9 triệu đồng cho học sinh lớp 7-9. Năm 2023-2023, học phí lớp 10, 11 là 672,9 triệu đồng. Lớp 12, 13 có học phí là 730,8 triệu đồng.

Trường Quốc tế Mỹ (TAS) giữ mức học phí như năm 2023-2023. Theo đó, học sinh lớp 9, 10 đóng 507,5 triệu đồng, lớp 11, 12 đóng 549,5 triệu đồng; học phí chương trình THCS (lớp 6-8) là 526.125.000 đồng.

Trường Song ngữ Quốc tế Horizon (HIBS) tại TPHCM thu học phí 205.320.000 đồng cho bậc THCS chương trình song ngữ; học phí gần 236,2 triệu đồng đối với học sinh THPT.

Trường Quốc tế Australia (AIS Saigon) dạy từ bậc mầm non đến lớp 13. Bậc THCS từ lớp 7 đến lớp 11, học phí bậc học này rơi vào mức 558-610 triệu đồng; 665 triệu đồng học phí đối với bậc THPT (gồm lớp 12 và 13).

Trường Quốc tế châu Âu (EIS) dạy từ bậc mầm non đến lớp 12. Học phí lớp 6-8 là 482,9 triệu đồng, lớp 9 là 536,3 triệu đồng và lớp 10 là 548,4 triệu đồng; học phí 599.128.000 đồng đối với học sinh lớp 11 và 599.128.000 đồng đối với học sinh lớp 12.

Trường Quốc tế Singapore (SIS) tại TPHCM cung cấp chương trình song ngữ và chương trình quốc tế. Trong đó, ở hệ song ngữ, học phí lớp 6-7 là 250.938.000 đồng, lớp 8-9 là 250.938.000 đồng. Học phí chương trình quốc tế cao hơn 420.615.000 đồng cho lớp 7-8 và 468.490.000 đồng với lớp 9-10 (IGCSE). Trường này không gọi học sinh sau lớp 10 là THPT. Thay vào đó, trường dạy chương trình quốc tế theo các lớp A/AS cấp độ 1 (học phí 477.315.000 đồng), A/AS cấp độ 2 và GAC (cùng có mức học phí 499.305.000 đồng).

Trường Quốc tế Nam Sài Gòn (SSIS) năm 2023-2023, học phí lớp 11, 12 là 685 triệu đồng.

Theo Thanh Thanh báo Phụ Nữ