Học Tiếng Dân Tộc Thổ / Top 11 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Theolympiashools.edu.vn

Dạy Tiếng Dân Tộc Cho Học Sinh Người Dân Tộc

Điện Biên TV – Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc trong đó khuyến khích thế hệ trẻ trong đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình là một trong những yếu tố góp phần giữ gìn, bảo tồn, củng cố và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc. Tại huyện Tuần Giáo chương trình dạy tiếng Thái, tiếng Mông cho học sinh đã được triển khai tại 15 trường tiểu học và trung học cơ sở.

Lớp học dạy tiếng Thái cho học sinh tại huyện Tuần Giáo.

Năm 2011, trường PTDTBT Tiểu học Ta Ma là một trong những đơn vị trường học đầu tiên triển khai dạy tiếng Mông theo Đề án dạy tiếng Thái, tiếng Mông cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở giai đoạn 2011 – 2023.  Chương trình được triển khai từ lớp 3 đến lớp 5, học sinh đã tương đối thuần tiếng phổ thông nên việc nắm bắt kiến thức tiếng Mông khá thuận lợi.

Tuy nhiên, theo thầy giáo Nguyễn Phúc Đồng, Hiệu trưởng nhà trường, cho biết việc dạy tiếng dân tộc cũng gặp một số khó khăn. ĐÓ là nội dung kiến thức còn hơi nặng với học sinh khối lớp 3 bởi một số phần học sinh hơi khó nhớ và khó hiểu. Do vậy, đề nghị trong thời gian tới Đề án nên giảm tải bớt chương trình cho khối lớp 3.

Chủ động truyền dạy tiếng dân tộc cho học sinh, đội ngũ giáo viên là người dân tộc Thái, dân tộc Mông đã sáng tạo, linh hoạt làm đồ dùng dạy học và sử dụng phù hợp với đặc thù và vùng miền nhằm nâng cao chất lượng truyền thu tiếng dân tộc. Đồng thời lựa chọn lồng ghép giới thiệu văn hóa, phong tục tập quán, các trò chơi dân gian,… của các dân tộc thông qua các chương trình chính khóa, ngoại khóa, các hoạt động tập thể.

Khuyến khích thế hệ trẻ trong đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình là một trong những yếu tố góp phần giữ gìn, bảo tồn, củng cố và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc.

Ông Đỗ Văn Sơn, Trưởng phòng GD&ĐT huyện Tuần Giáo, cho biết: Năm học 2011 – 2012, khi bắt đầu triển khai Đề án dạy tiếng Thái, tiếng Mông cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở giai đoạn 2011 – 2023, huyện Tuần Giáo chỉ có có 2 trường, 4 lớp và 85 học sinh học tiếng Thái; 1 trường, 2 lớp và 48 học sinh học tiếng Mông. Đến nay, sau gần 10 năm triển khai thực hiện Đề án quy mô trường, lớp, học sinh học tiếng dân tộc trên địa bàn huyện Tuần Giáo được mở rộng theo từng năm.

Tiếp tục gìn giữ, phát huy giá trị ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc, huyện Tuần Giáo  đang vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học môn tiếng Việt vào dạy tiếng dân tộc; ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy; xây dựng đội ngũ quản lý viên chức quản lý chỉ đạo dạy tiếng dân tộc có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, hiểu biết tiếng, chữ viết và văn hóa dân tộc… theo tinh thần Nghị quyết số 03/NQ-TW về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.

Việt Hòa/DIENBIENTV.VN  

Mc Tiệc Cưới, Học Làm Mc Đám Cưới, Video Đám Cưới Hay Nhất: Dân Tộc Thổ (Vi Đức Hồi)

Trang phục nam, nữ dân tộc Thổ

Khu vực có số dân đáng kể ở phía tây tỉnh Nghệ An Việt Nam

Ngôn ngữ: Tiếng Việt, tiếng Thổ

Tôn giáo: Phật giáo, vật linh

Dân tộc Thổ là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Dân tộc Thổ có các tên gọi khác như Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai, Ly Hà, Tày Pọng, Con Kha, Xá Lá Vàng v.v.

Tiếng Thổ thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, thuộc ngữ chi Việt trong ngữ hệ Nam Á. Tuy nhiên mức độ các nghiên cứu còn hạn chế.

Dân số và địa bàn cư trú của dân tộc Thổ có khoảng 69.000 người, chủ yếu sinh sống tại miền tây tỉnh Nghệ An (80 %) và tỉnh Thanh Hóa (13 %).

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc Thổ ở Việt Nam có dân số 74.458 người, có mặt tại 60 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Thổ cư trú tập trung tại tỉnhNghệ An (59.579 người, chiếm 80,0% tổng số người Thổ tại Việt Nam), Thanh Hóa (9.652 người, chiếm 13,0% tổng số dân tộc Thổ tại Việt Nam), Lâm Đồng (966 người), Đồng Nai (657 người), Đắk Lắk (541 người), Bình Dương (510 người), thành phố Hồ Chí Minh (362 người), Điện Biên (226 người), Đắk Nông (216 người), Hà Nội (211 người)[2]…

Dân tộc Thổ làm rẫy trên cả đất dốc, cả đất bằng, trồng lúa và gai là chính. Trong canh tác lúa, ngoài cách thức chọc lỗ tra hạt, dân tộc Thổ còn gieo vãi và dùng cày, bừa để lấp đất sau khi gieo. Cây gai cho sợi đan nhiều vật dụng cần thiết: túi, võng, lưới bắt cá, vó, lưới săn thú, v.v. Một tấm lưới săn thú cần đến 30-40 kg sợi gai.

Cá, chim, thú là nguồn thực phẩm quan trọng đối với dân tộc Thổ, họ có kinh nghiệm săn bắn, đánh bắt cá. Bên cạnh đó, rừng cung cấp các loại rau, quả, củ làm thức ăn thông thường cũng như khi đói kém. Dân tộc Thổ trước đây có nghề dệt vải nhưng do điều kiện canh tác cũng như sự giao lưu với người Kinh đã làm cho nghề dệt bị mai một dần[cần dẫn nguồn.

Trong làng người dân tộc Thổ, quan hệ gắn bó giúp đỡ lẫn nhau là nếp sống lâu đời. Theo tục cũ, toàn bộ đất đai, rừng núi, sông suối là của chung dân gian, mỗi người được quyền quản lý khi đang gieo trồng, được quyền khai thác khi là dân sống trong làng.

Dân tộc Thổ có tục “ngủ mái”: nam nữ thanh niên được nằm tâm tình với nhau, nhất là vào dịp tết, lễ hội, tuy nhiên không được có hành vi thiếu đúng đắn bởi dư luận và luật tục rất nghiêm minh. Từ những đêm “ngủ mái”, họ chọn bạn trăm năm. Trong hôn nhân, nhà trai phải tốn không ít tiền của và trước khi cưới, chàng trai phải năng đến làm việc cho nhà vợ tương lai.

Tục lệ ma chay.

Đám tang của người dân tộc Thổ trước kia có nhiều nét độc đáo. Họ dùng quan tài độc mộc, khiêng người chết đi chôn thì để chân hướng về phía trước, còn mộ thường để chân hướng xuôi theo chiều nước chảy.

Xưa kia dân tộc Thổ có nhiều ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện cổ, các điệu ca hát của người lớn, những bài đồng dao của trẻ, đặc biệt là những điệu hát ru, v.v. Song vốn văn nghệ dân gian Thổ đến nay đã bị quên lãng, mất mát nhiều.

Cứ vào dịp hội hè lễ tết thì dân tộc Thổ lại tập trung nhau lại các đôi trai gái lai cùng nhau uống rượu cần, cùng hát múa, tiếng cồng chiêng hoà chung với những câu hát đối tạo nên những âm thanh vang vọng trong đêm hội. Chiêng của người dân tộc Thổ giống với người Thái, mương về cấu tạo nhưng họ lại có những điệu đánh khác hẳn. Người Thổ có những câu hát dối rất đặc sắc[cần dẫn nguồn.

Dân tộc Thổ quen sống trên nhà sàn, nhưng nhà của họ không có gì đặc biệt. ở vùng Lâm La nhà sàn của dân tộc Thổ giống hệt nhà dân tộc Mường. Ở những xã phía Nam, nhà người dân tộc Thổ lại giống nhà người Thái. Nay nhiều nơi người ta đã chuyển sang nhà ở đất theo kiểu nhà người Việt.

Khó nhận ra cá tính tộc người. Đồ mặc có nơi giống như y phục của người Kinh nông thôn nửa thế kỷ về trước, có nơi phụ nữ dùng cả váy mua của người Thái. Ở vùng dân tộc Thổ phổ biến tập quán phụ nữ đội khăn vuông trắng, còn khăn tang là khăn trắng dài.

Vi Đức Hồi (sưu tầm) trích Bách khoa toàn thư

Share : Dân tộc Thổ (Vi Đức Hồi)

Dân Tộc Là Gì ? Các Khái Niệm Về Dân Tộc?

1. Khái niệm về dân tộc (cách hiểu về dân tộc):

Dân tộc (tộc người, ethnie) là hình thái đặc thù của một tập đoàn người, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi 3 đặc trưng cơ bản là ngôn ngữ, văn hoá và ý thức tự giác về cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử; ví dụ: dân tộc (hay tộc người) Việt, dân tộc (hay tộc người) Tày, dân tộc (hay tộc người) Khơ Me… Hình thức và trình độ phát triển của tộc người phụ thuộc vào các thể chế xã hội ứng với các phương thức sản xuất.

Dân tộc (nation) – hình thái phát triển cao nhất của tộc người, xuất hiện trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa (hình thái của tộc người trong xã hội nguyên thủy là bộ lạc, trong xã hội nô lệ và xã hội phong kiến là bộ tộc). Dân tộc đặc trưng bởi sự cộng đồng bền vững và chặt chẽ hơn về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, các đặc điểm về văn hóa và ý thức tự giác tộc người.

So với bộ tộc thời phong kiến, dân tộc trong thời kì phát triển tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa có lãnh thổ ổn định, tình trạng cát cứ bị xoá bỏ, có nền kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường quốc gia hình thành thống nhất, các ngữ âm, thổ ngữ bị xoá bỏ, tiếng thủ đô được coi là chuẩn và ngày càng lan rộng ảnh hưởng, sự cách biệt về văn hóa giữa các vùng, miền và giữa các bộ phận của tộc người bị xóa bỏ phần lớn, ý thức về quốc gia được củng cố vững chắc.

Cộng đồng dân tộc thường được hình thành hoặc từ một bộ tộc phát triển lên; hoặc là kết quả của sự thống nhất hai hay nhiều bộ tộc có những đặc điểm chung về lịch sử – văn hóa.

Ngoài những nét giống nhau trên, giữa dân tộc tư bản chủ nghĩa và dân tộc xã hội chủ nghĩa có những nét khác biệt nhau, do đặc điểm của phương thức sản xuất và thể chế xã hội. Ở dân tộc tư bản chủ nghĩa, xã hội phân chia đối kháng giai cấp giữa tư sản và vô sản, Nhà nước là của giai cấp tư sản, bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản. Còn ở dân tộc xã hội chủ nghĩa, xã hội không còn đối kháng giai cấp, quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

3. Dân tộc (quốc gia dân tộc; ví dụ: dân tộc Việt Nam) là cộng đồng chính trị – xã hội, được hình thành do sự tập hợp của nhiều tộc người có trình độ phát triển kinh tế – xã hội khác nhau cùng chung sống trên một lãnh thổ nhất định và được quản lí thống nhất bởi một nhà nước. Kết cấu của cộng đồng quốc gia dân tộc rất đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, hoàn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước. Một quốc gia dân tộc có tộc người đa số và các tộc người thiểu số. Có tộc người đã đạt đến trình độ dân tộc, song nhiều tộc người ở trình độ bộ tộc. Với cơ cấu tộc người như vậy, quan hệ giữa các tộc người rất đa dạng và phức tạp. Nhà nước phải ban hành chính sách dân tộc để duy trì sự ổn định và phát triển của các tộc người, sự ổn định và phát triển của đất nước. Cũng có trường hợp, một quốc gia chỉ gồm một tộc người (Triều Tiên).

(Nội dung trên được đưa ra bởi: Từ điển luật học xuất bản năm 2010)

Khái niệm dân tộc trong tiếng Việt có thể đề cập đến các nghĩa sau:

+ Dân tộc (cộng đồng): theo nghĩa rộng là cộng đồng người có chung nền văn hóa, nhóm sắc tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc, lịch sử; đôi khi bao gồm nhiều nhóm sắc tộc. Dân tộc trong trường hợp quốc gia dân tộc còn được gọi là quốc dân.

+ Sắc tộc: chỉ nhóm xã hội được phân loại dựa trên nhiều nét chung như di sản văn hóa, nguồn gốc, lịch sử, ngôn ngữ hoặc phương ngữ.

Một số định nghĩa khác về dân tộc:

Dân tộc có thể chỉ một cộng đồng người chia sẻ một ngôn ngữ, văn hóa, sắc tộc, nguồn gốc, hoặc lịch sử. Tuy nhiên, nó cũng có thể chỉ những người có chung lãnh thổ và chính quyền (ví dụ những người trong một quốc gia có chủ quyền) không kể nhóm sắc tộc.

Trong trường hợp gắn liền với một quốc gia dân tộc, dân tộc còn được gọi là quốc dân. “Dân tộc” mang nhiều nghĩa và phạm vi nghĩa của thuật ngữ thay đổi theo thời gian.

Hầu hết mọi dân tộc sống trong một lãnh thổ cụ thể gọi là quốc gia. Một số dân tộc khác lại sống chủ yếu ngoài tổ quốc của mình. Một quốc gia được công nhận là tổ quốc của một dân tộc cụ thể gọi là “nhà nước – dân tộc”. Hầu hết các quốc gia hiện thời thuộc loại này mặc dù vẫn có những tranh chấp một cách thô bạo về tính hợp pháp của chúng. Ở các nước có tranh chấp lãnh thổ giữa các dân tộc thì quyền lợi thuộc về dân tộc nào sống ở đó đầu tiên. Đặc biệt ở những vùng người châu Âu định cư có lịch sử lâu đời, thuật ngữ “dân tộc đầu tiên” dùng cho những nhóm người có chung văn hóa cổ truyền, cùng tìm kiếm sự công nhận chính thức hay quyền tự chủ.

Khái niệm dân tộc, sắc tộc thường có nhiều cách sử dụng không thống nhất trên toàn thế giới:

Thường thì những thuật ngữ như dân tộc, nước, đất nước hay nhà nước được dùng như những từ đồng nghĩa. Ví dụ như: vùng đất chỉ có một chính phủ nắm quyền, hay dân cư trong vùng đó hoặc ngay chính chính phủ. Chúng còn có nghĩa khác là nhà nước do luật định hay nhà nước thực quyền. Trong tiếng Anh các thuật ngữ trên không có nghĩa chính xác mà thường được dùng uyển chuyển trong cách nói viết hàng ngày và cũng có thể giải nghĩa chúng một cách rộng hơn.

Khi xét chặt chẽ hơn thì các thuật ngữ “dân tộc”, “sắc tộc” và “người dân” (chẳng hạn người dân Việt Nam) gọi là nhóm thuộc về con người. “Nước” là một vùng theo địa lý, còn “nhà nước” diễn đạt một thể chế cầm quyền và điều hành một cách hợp pháp. Điều rắc rối là hai tính từ “quốc gia” và “quốc tế” lại dùng cho thuật ngữ nhà nước, chẳng hạn từ “luật quốc tế” dùng trong quan hệ giữa các nhà nước hoặc giữa nhà nước và các cá nhân, các công dân.

Thuật ngữ “dân tộc” thường dùng một cách ẩn dụ để chỉ những nhóm người có chung đặc điểm hay mối quan tâm.

1

Công tác dân tộc

Công tác dân tộc là những hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm tác động và tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Nghị định 05/2011/NĐ-CP

6

Dân tộc thiểu số tại chỗ

Là đồng bào dân tộc thiểu số có nguồn gốc, tổ tiên sinh sống lâu đời trên địa bàn

15/2008/QĐ-UBND

(Hết hiệu lực)

Tỉnh Đắk Lắk

7

bao gồm các đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đề tài khoa học xã hội và nhân văn. Đề tài có thể độc lập hoặc thuộc dự án, chương trình.

9

Mạng Ủy ban Dân tộc

Là tên viết tắt của hệ thống mạng thông tin của Ủy ban

10

Nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ của Ủy ban Dân tộc

là những vấn đề khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác dân tộc cần giải quyết, được xác định, thực hiện theo quy định của Nhà nước về quản lý khoa học và công nghệ và những quy định tại Thông tư này;

11

Trường phổ thông dân tộc bán trú

là trường chuyên biệt, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này bao gồm trường phổ thông dân tộc bán trú cấp tiểu học có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 25% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú cấp trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú.

12

Trường phổ thông dân tộc bán trú

Là trường chuyên biệt, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập nhằm đáp ứng yêu cầu học tập của con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho địa phương, bao gồm: trường phổ thông dân tộc bán trú cấp tiểu học có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 25% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú cấp trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, các tỷ lệ này ổn định

Tỉnh Đắk Lắk

13

Vùng dân tộc thiểu số

Vùng dân tộc thiểu sốlà địa bàn có đông các dân tộc thiểu số cùng sinh sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nghị định số 05/2011/NĐ-CP

Nguồn: Thư viện pháp luật

3. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam

Nước ta là quốc gia đa dân tộc và có nhiều đặc điểm quan trọng, nổi bật. Trong đó cần chú ý các đặc điểm sau:

– Các dân tộc sinh sống trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết.

– Các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen kẽ nhau.

– Các dân tộc ở Việt Nam trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đều nhau.

– Sự phân bố dân cư không đều; trên vùng núi, biên giới, chủ yếu là các dân tộc thiểu số đang sinh sống.

4. Thế nào là công tác dân tộc? Các nguyên tắc cơ bản của dân tộc?

” Công tác dân tộc ” là những hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm tác động và tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tại Điều 3 Nghị định 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc quy định các nguyên tắc cơ bản sau:

– Thực hiện chính sách dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.

– Đảm bảo và thực hiện chính sách phát triển toàn diện, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.

– Đảm bảo việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.

– Các dân tộc có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của nhau, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

5. Các hành vi bị nghiêm cấm trong công tác dân tộc ở Việt Nam là gì?

Nghiêm cấm các hành vi sau đây:

– Mọi hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử, chia rẽ, phá hoại đoàn kết các dân tộc.

– Lợi dụng các vấn đề về dân tộc để tuyên truyền xuyên tạc, chống lại đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

– Lợi dụng việc thực hiện chính sách dân tộc, quản lý nhà nước về công tác dân tộc để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

– Các hành vi khác trái với quy định của Chính phủ.

Trân trọng./.

Các câu hỏi thường gặp

Đại Học Dân Tộc Quảng Tây

Đại học Dân tộc Quảng Tây nằm ở thành phố Nam Ninh thủ phủ của tỉnh Quảng Tây. Đây là một trường đại học rất lớn, với rất nhiều các học viện cùng đẩy đủ các chuyên ngành. Trường được thành lập vào năm 1952, được Ủy ban Dân tộc Quốc gia và UBND Khu tự trị Quảng Tây cùng xây dựng và phát triển, là trường đại học trọng điểm của Khu tự trị Quảng Tây. Hiện nay trường có hai cơ sở với tổng diện tích 120 hecta. Trường bao gồm 25 học viện, có hệ thống đào tạo hoàn chỉnh từ cao đẳng, đại học, cao học và nghiên cứu sinh. Trường có hơn 20 ngàn sinh viên trong nước cùng lưu học sinh đang theo học.

Trường tăng cường tính đặc sắc quốc tế, từ năm 1986 bắt đầu tuyển lưu học sinh, đến nay trường đã thiết lập quan hệ giao lưu và hợp tác với 144 trường đại học và cơ sở nghiên cứu của 19 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã hợp tác thành lập 3 Học viện Khổng Tử với trường Đại học Mahasarakan của Thái Lan, trường Đại học Quốc gia Lào và trường Đại học Tanjung Bula của Indonesia. Từ khi thành lập trường đến nay, trường đã đào tạo được 14 ngàn học sinh, sinh viên đến từ 45 quốc gia như Việt Nam, Thái Lan, Lào, Mỹ, Anh, Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản… Trường đã phong học hàm giáo sư danh dự cho công chúa Sirindhorn của Thái Lan và phong học vị tiến sĩ danh dự cho thủ tướng Hun Sen của Cam-pu-chia. Các vị lãnh đạo như Chủ tịch nước Tập Cận Bình, Hoàng tử Sihanouk nguyên thủ Cam-pu-chia, Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương, công chúa Thái Lan Sirindhorn, thủ tướng Lào Bouasone, Phó Tổng thống Myanmar Sai Mauk Kham… đều đã đến thăm và làm việc tại trường.

Về mặt giảng dạy và đào tạo lưu học sinh, sinh viên học lấy bằng thì học cùng lớp với sinh viên Trung Quốc, còn sinh viên học Hán ngữ thì học riêng theo lớp nhỏ, tùy vào trình độ của lưu học sinh mà nhà trường mở các lớp học theo 6 trình độ, có lớp học từ sơ cấp cho đến cao cấp.

Giáo viên kết hợp các phương pháp dạy học truyền thống viết bảng với cách dạy qua đa phương tiện. Trường có đội ngũ giáo viên hùng hậu về chuyên ngành Hán ngữ giáo dục quốc tế, có kinh nghiệm giảng dạy phong phú, luôn đạt hiệu quả cao trong công tác giảng dạy và được lưu học sinh đánh giá là trường có chất lượng đào tạo Hán ngữ cho sinh viên Việt Nam cũng như sinh viên các nước thuộc hàng đầu tại Quảng Tây. Hàng năm trường tổ chức hai đợt thi HSK, trước kỳ thi có mở lớp phụ đạo ôn tập, hàng năm tỉ lệ thí sinh đỗ bằng HSK của trường luôn đạt trên 90%. Với sinh viên học Hán ngữ từ đầu, sau 1 năm học đều đủ trình độ thi đạt HSK cấp 4. Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp về nước được tuyển vào các cơ quan nhà nước và chính phủ, làm cán bộ quản lý cao cấp trong các doanh nghiệp, hoặc trở thành các chuyên gia, học giả…

Tại học viện Giáo dục Quốc tế của Đại học Dân tộc Quảng Tây có Văn phòng công tác lưu học sinh chuyên phụ trách các công tác như tuyển sinh, tư vấn nhập học, làm thủ tục đăng ký, thủ tục nhập học, thủ tục làm visa và quản lý sinh hoạt hàng ngày. Về quản lý ngày thường đối với lưu học sinh, trường Đại học Dân tộc Quảng Tây chú trọng quan tâm về mặt nhân văn, cung cấp dịch vụ chu đáo cho mỗi lưu học sinh. Để làm tốt công tác quản lý và phục vụ trong ngày thường, mỗi lớp đều có một giáo viên tham gia giảng dạy làm chủ nhiệm lớp. Đến trường học tập, các sinh viên chưa biết gì về tiếng Hán cũng không cần lo về bất đồng ngôn ngữ. Trường có Hội lưu học sinh các nước chuyên phụ trách tổ chức các hoạt động phong phú đa dạng hàng ngày và giúp đỡ lưu học sinh. Đối với các sinh viên mới, trường luôn bố trí các tình nguyện viên để hỗ trợ và hướng dẫn để giúp cho các bạn nhanh chóng thích ứng với điều kiện sống và học tập tại trường. Các hoạt động ngoài giờ của lưu học sinh cũng rất phong phú đa dạng như : Tổ chức cuộc thi khẩu ngữ Hán ngữ, tổ chức các hoạt động khảo sát văn hóa như đi thăm các thành phố Bắc Kinh, Thượng Hải, Tô Châu và Quế Lâm… Ngoài ra còn có các hoạt động văn hóa thể thao như: Triển lãm ẩm thực các nước ASEAN, cuộc thi xe đạp địa hình quốc tế, cuộc thi hoa hậu Mỹ nhân Quảng Tây, thi diễn thuyết, thi hát kịch, thi cầu lông… Lưu học sinh của trường luôn giành được thành tích tốt trong các cuộc thi nêu trên. Thông qua các hoạt động trên, không những làm phong phú sinh hoạt hàng ngày cho sinh viên mà còn giúp họ có thêm hiểu biết về lịch sử văn hóa Trung Quốc, mở rộng tầm nhìn, nâng cao tố chất văn hóa.

Trường Đại học Dân tộc Quảng Tây được mệnh danh là khu rừng già của các trường đại học tại Nam Ninh bởi trường tọa lạc trên những quả đồi với rất nhiều cây xanh. Trong trường có nhiều cảnh đẹp, có hồ nước đẹp và các loại thực vật vô cùng phong phú. Sinh sống và học tập tại đây các bạn luôn luôn được hít thở không khí trong lành, được hòa mình vào không khí học tập và được sinh hoạt vận động thể dục thể thao với cơ sở hạ tầng hiện đại và tiện nghi. Hiện nay nhà trường đã hoàn thành kí túc xá cao 25 tầng cho lưu học sinh, trong phòng kí túc xá bố trí vật dụng không khác gì khách sạn. Bất kỳ ai khi tới đây học tập sẽ đều thỏa mãn vì điều kiện sống nơi đây.

Lớp Hán ngữ cho người mới: học các môn Hán ngữ sơ cấp, khẩu ngữ sơ cấp và nghe sơ cấp.

Lớp Hán ngữ sơ cấp: học các môn như Hán ngữ sơ cấp, khẩu ngữ sơ cấp, nghe sơ cấp và đọc hiểu sơ cấp.

Lớp Hán ngữ trung cấp: học các môn như Hán ngữ trung cấp, khẩu ngữ trung cấp, nghe trung cấp, đọc hiểu trung cấp, khẩu ngữ ngoại thương, viết trung cấp, ngôn ngữ báo chí và xử lý thông tin tiếng Trung…

Lớp Hán ngữ cao cấp: học các môn như Hán ngữ cao cấp, khẩu ngữ cao cấp, nghe cao cấp, đọc báo cao cấp, ngữ pháp Hán ngữ, Hán ngữ cổ đại, văn học hiện đương đại Trung Quốc, Hán ngữ thương mại, văn hóa Trung Quốc, văn hóa chữ Hán, địa lý Trung Quốc, lịch sử Trung Quốc, kinh tế Trung Quốc, viết văn ngoại thương…

-Đối tượng tuyển sinh: người nước ngoài.

-Điều kiện nhập học phải là công dân nước ngoài có hộ chiếu hợp pháp, trên 16 tuổi, sức khỏe tốt, tuân thủ luật pháp Trung Quốc và nội quy của trường, tôn trọng phong tục tập quán của người Trung Quốc.

-Sau khi hoàn thành khóa học. Học nửa năm trở lên, kiểm tra đạt yêu cầu sẽ được cấp chứng chỉ học tập.

Các chuyên ngành tuyển sinh của trường Đại học Dân tộc Quảng Tây.

A. Các chuyên ngành đại học:

Học viện Giáo dục quốc tế: chuyên ngành Hán ngữ

Học viện Chính trị và Quản lý công cộng: chính trị học và hành chính học, quốc tế học và quan hệ quốc tế, quản lý hành chính công.

Học viện Luật: chuyên ngành luật học, quyền sở hữu trí tuệ.

Học viện Quản lý: chuyên ngành quản lý công thương, quản trị du lịch, hồ sơ học, quản lý nguồn nhân lực.

Học viện Thương mại: chuyên ngành kinh tế và mậu dịch quốc tế, thương mại điện tử, quản lý logistic, marketing, kế toán học, tài chính học, thuế học.

Học viện Văn học: chuyên ngành văn học ngôn ngữ Hán, giáo dục Hán ngữ quốc tế, ngôn ngữ văn học các dân tộc thiếu số Trung Quốc (tiếng Choang, tiếng Dao)

Học viện Ngoại ngữ: chuyên ngành tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt Nam, tiếng Lào, tiếng Thái Lan, tiếng Myanmar, tiếng Indonesia, tiếng Malaysia.

Học viện Dân tộc học và Xã hội học: chuyên ngành xã hội học, công tác xã hội, lịch sử học, dân tộc học, nhân loại học.

Học viện Lý: chuyên ngành toán và toán ứng dụng, thông tin và tin học máy tính, vật lý học, kỹ thuật vật liệu kim loại, tài chính toán học.

Học viện Khoa học thông tin và Công trình: chuyên ngành khoa học và kỹ thuật máy tính, thông tin điện tử, viễn thông, viễn thông (thông tin tín hiệu liên lạc đường sắt), tự động hóa, kỹ thuật mạng, Internet of Things.

Học viện Phần mềm: chuyên ngành quản lý thông tin và hệ thống thông tin, kỹ thuật phần mềm.

Học viện Hóa học hóa công: chuyên ngành công nghệ kỹ thuật hóa học, hóa học, hóa học ứng dụng, khoa học vật liệu polimer, khoa học môi trường, kỹ thuật bào chế dược phẩm, bào chế thuốc đông y.

Học viện Biển và Công nghệ sinh học: chuyên ngành công nghệ sinh học, khoa học biển.

Học viện Thể thao và Khoa học sức khỏe: chuyên ngành giáo dục thể chất, chỉ đạo và quản lý thể thao xã hội.

Học viện Nghệ thuật: chuyên ngành thanh nhạc, trình diễn nhạc cụ, nhảy, mỹ thuật, thiết kế truyền thông hình ảnh, thiết kế môi trường.

Học viện Truyền thông: chuyên ngành nghệ thuật phát thanh và dẫn chương trình, biên đạo chương trình phát thanh và truyền hình, biên tập và xuất bản, truyền thông, báo chí.

Học viện Khoa học giáo dục: chuyên ngành tâm lý học ứng dụng, giáo dục học.

B. Các chuyên ngành cao học:

Chính trị học: đạo đức học, lý luận chính trị học, hợp tác quốc tế.

Giáo dục: tư tưởng chính trị.

Luật: luật phi pháp, luật hợp pháp, luật hình sự, luật tố tụng.

Xã hội học.

Dân tộc học: dân tộc học, kinh tế các dân tộc thiểu số Trung Quốc, lịch sử các dân tộc thiểu số Trung Quốc, nghệ thuật các dân tộc thiểu số Trung Quốc, Choang học và Dao học.

Lịch sử Trung Quốc.

Lịch sử KH&CN.

Giáo dục: lịch sử.

Dân tộc học: giáo dục học dân tộc.

Giáo dục: quản lý giáo dục, giáo dục sức khỏe tâm lý

Đào tạo và giáo dục thể chất.

Thể thao truyền thống dân tộc.

Giáo dục: thể thao.

Thẩm mỹ.

Ngôn ngữ văn học Trung Quốc: văn nghệ học, ngôn ngữ học và ngôn ngữ học ứng dụng, văn tự học ngôn ngữ Hán, văn hiến học cổ điển Trung Quốc, văn học cổ đại Trung Quốc, văn học hiện đại và đương đại Trung Quốc, NN văn học các dân tộc thiểu số Trung Quốc, văn học so sánh và văn học thế giới, văn học dân gian Trung Quốc.

Giáo dục Hán ngữ quốc tế.

Giáo dục: ngữ văn.

Ngôn ngữ văn học nước ngoài: ngôn ngữ văn học tiếng Anh, ngôn ngữ văn học tiếng Pháp, ngôn ngữ học nước ngoài và ngôn ngữ học ứng dụng.

Giáo dục: tiếng Anh.

Phiên dịch: dịch viết tiếng Anh, dịch nói tiếng Anh.

Chính trị học: nghiên cứu ASEAN.

Ngôn ngữ văn học nước ngoài: văn minh Trung Quốc và Đông Nam Á.

Luật tố tụng (hướng ASEAN).

Toán học: toán học cơ sở, toán học tính toán, lý thuyết xác suất và thống kê toán học, toán học ứng dụng, nghiên cứu tác nghiệp và khoa học về sự tương tác.

Ngành học liên ngành: toán học máy tính (Computer Mathematics).

Ngành học liên ngành: khoa học vật liệu tính toán.

Giáo dục: toán học, vật lý.

Khoa học và kỹ thuật máy tính: kết cấu hệ thống máy tính, kỹ thuật ứng dụng máy tính, xử lý ảnh và hệ thống thông minh.

Khoa học và kỹ thuật máy tính: lý luận và phần mềm máy tính.

Hóa sinh và sinh học phân tử.

Khoa học kỹ thuật hóa học: hóa học, công nghệ hóa học, kỹ thuật sinh hóa, hóa học ứng dụng, xúc tác công nghiệp, Biomass Chemical Engineering, phân tích công nghiệp.

Giáo dục: hóa học.

Quản lý hành chính.

Bảo hiểm xã hội.

Thông tin thư viện và quản lý hồ sơ: khoa học thư viện, khoa học thông tin, lưu trữ học, chính phủ điện tử.

Quản lý kiến thức doanh nghiệp.

Bảo vệ và khai thác di sản văn hóa dân tộc.

Quản lý công (MPA).

Khoa học và kỹ thuật máy tính: quản lý thông tin thương mại.

Thương mại quốc tế.

Giáo dục: mỹ thuật, nhạc.

Lịch sử TQ: lịch sử nghệ thuật và nghệ thuật hiện đại.

Ngôn ngữ văn học Trung Quốc: lý luận và sáng tác nghệ thuật phim ảnh, ngôn ngữ học và ngôn ngữ học ứng dụng (truyền bá văn hóa và ứng dụng ngôn ngữ).

C. Các chuyên ngành nghiên cứu sinh:

Dân tộc học: dân tộc xuyên biên giới, nhân loại học, chính sách giáo dục dân tộc, sử chí các dân tộc Trung Quốc và Đông Nam Á, luật pháp học dân tộc, y dược dân tộc, nhân loại học lịch sử các dân tộc Hoa Nam – Đông Nam Á, nghệ thuật dân tộc, nhân chủng học kinh tế và phát triển kinh tế dân tộc, quan hệ ngoại thương của vùng dân tộc, nghiên cứu nhóm tộc người Hoa ở nước ngoài, lịch sử khoa học các dân tộc miền nam và Đông Nam Á, kinh tế dân tộc và quyền sở hữu trí tuệ.

Thẩm mỹ sinh thái: lý luận và phương pháp nghiên cứu thẩm mỹ sinh thái.

Văn nghệ học: phim ảnh và văn hóa đại chúng.

Văn tự học ngôn ngữ Hán: nghiên cứu so sánh dựa trên Hán ngữ.

Văn học cổ đại Trung Quốc: nghiên cứu thơ văn cổ đại.

Văn học hiện đương đại Trung Quốc: nghiên cứu tác phẩm các nhà văn hiện đương đại, nghiên cứu dòng văn học hiện đương đại.

Ngôn ngữ văn học nước ngoài: ngôn ngữ học tri nhận, văn học pháp, nghiên cứu phương pháp dịch văn học so sánh, nghiên cứu văn học và văn hóa Trung Quốc và Đông Nam Á.

Hồ sơ xét tuyển và thủ tục nhập học Đại học Dân tộc Quảng Tây.

A. Điều kiện đăng ký học.

(1). Người học phải là công dân nước ngoài có hộ chiếu hợp pháp, từ 18 tuổi trở lên, sức khỏe tốt, tuân thủ luật pháp Trung Quốc và nội quy nhà trường; tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân Trung Quốc.

(2). Người học có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.

(3). Người học chuyên ngành Văn học Trung Quốc, Lịch sử Trung Quốc, Triết học Trung Quốc thì đầu vào phải có bằng HSK cấp 4 trở lên; các chuyên ngành khác thì yêu cầu có bằng cấp 3. Nếu trình độ HSK của người học chưa đạt yêu cầu thì do nhà trường tổ chức trắc nghiệm kiểm tra trình độ Hán ngữ cho người học. Nếu đạt yêu cầu nhất định thì có thể xin học thử một đến hai năm.

2. Cao học.

(1). Người học phải là công dân nước ngoài có hộ chiếu hợp pháp, từ 18 tuổi trở lên, sức khỏe tốt, tuân thủ luật pháp Trung Quốc và nội quy nhà trường; tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân Trung Quốc.

(2). Người học phải có bằng tốt nghiệp đại học và bằng cử nhân.

(3). Người học phải có bằng HSK cấp 5 về trình độ Hán ngữ. Nếu trình độ HSK chưa đạt yêu cầu thì do nhà trường tổ chức trắc nghiệm kiểm tra trình độ Hán ngữ cho người học, nếu đạt yêu cầu nhất định thì có thể xin học thử một đến hai năm.

(4). Hai bản “thư giới thiệu của chuyên gia” của hai người phó giáo sư (hoặc chức danh tương đương) trong lĩnh vực chuyên ngành của người học.

3. Nghiên cứu sinh.

(1). Người học phải là công dân nước ngoài có hộ chiếu hợp pháp, từ 18 tuổi trở lên, sức khỏe tốt, tuân thủ luật pháp Trung Quốc và nội quy nhà trường; tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân Trung Quốc.

(2). Người học phải có bằng tốt nghiệp cao học và bằng thạc sĩ.

(3). Người học phải có bằng HSK cấp 6. Nếu trình độ HSK chưa đạt yêu cầu thì do nhà trường tổ chức trắc nghiệm kiểm tra trình độ Hán ngữ cho người học, nếu đạt yêu cầu nhất định thì có thể xin học thử một đến hai năm.

(4). Hai bản “thư giới thiệu của chuyên gia” của hai người giáo sư (hoặc chức danh tương đương) trong lĩnh vực chuyên ngành của người học.

Người học tiến tu Hán ngữ phải nộp những hồ sơ như sau:(1). “Đơn xin đăng ký lưu học sinh nước ngoài của trường Đại học Dân tộc Quảng Tây.(2). Bản sao hộ chiếu.(3). Văn bằng học vị cao nhất (nếu có).

Nười học đại học phải nộp những hồ sơ như sau:(1). “Đơn xin đăng ký lưu học sinh nước ngoài của trường Đại học Dân tộc Quảng Tây.(2). Bản sao hộ chiếu.(3). Bản sao giấy chứng nhận trình độ Hán ngữ (HSK cấp 4 trở lên).(4). Bản công chứng của bằng tốt nghiệp THPT (bản tiếng Trung hoặc tiếng Anh).

Người học cao học phải nộp những hồ sơ như sau:(1). “Đơn xin đăng ký lưu học sinh nước ngoài của trường Đại học Dân tộc Quảng Tây.(2). Bản sao hộ chiếu.(3). Bản sao giấy chứng nhận trình độ Hán ngữ (HSK cấp 5 trở lên).(4). Bằng tốt nghiệp, bằng học vị và bảng điểm tương ứng (bản công chứng bằng tiếng Trung hoặc tiếng Anh; sinh viên tốt nghiệp đương khóa có thể nộp giấy chứng nhận tốt nghiệp trước).(5). Hai thư giới thiệu của hai chuyên gia khác nhau (phó giáo sư trở lên).(6). Kế hoạch học tập (khoảng 800 chữ, viết bằng tiếng Trung, nội dung gồm chuyên ngành đăng ký, phương hướng nghiên cứu).

Người học có thể gửi hồ sơ xét tuyển đến trường Đại học Dân tộc Quảng Tây bằng phương thức gửi bưu phẩm, fax, email hoặc đến nộp tại chỗ.

Trường Đại học Dân tộc Quảng Tây nhận và xét duyệt hồ sơ, sau đó gửi “Giấy báo nhập học của Trường Đại học Dân tộc Quảng Tây” và “Đơn xin visa của lưu học sinh sang học tại Trung Quốc” cho người trúng tuyển.

Người trúng tuyển cầm “Giấy báo nhập học của trường Đại học Dân tộc Quảng Tây” và “Đơn xin visa của lưu học sinh sang học tại Trung Quốc” đến đại sứ quán hoặc lãnh sự quán Trung Quốc xin visa loại X hoặc F.

Cầm visa loại X hoặc F đến trường đăng ký nhập học theo thời gian quy định trong “Giấy báo nhập học của Trường Đại học Dân tộc Quảng Tây”.

Nộp kiểm tra những hồ sơ như sau:(1). “Giấy báo nhập học của Trường Đại học Dân tộc Quảng Tây” và “Đơn xin visa của lưu học sinh sang học tại Trung Quốc”.(2). Hộ chiếu bản gốc.(3). Bản gốc của Bằng tốt nghiệp, bằng học vị và giấy chứng nhận trình độ Hán ngữ (HSK).(4). 8 tấm ảnh hộ chiếu.

Nộp học phí và tiền ở.

Vào ở ký túc xá.

Khám sức khỏe.

Làm thẻ cư trú, bắt đầu vào học chuyên ngành.

Học phí của trường Đại học Dân tộc Quảng Tây. Kí túc xá:

3000 nhân dân tệ/phòng 4 người/năm

6000 nhân dân tệ/phòng 2 người/năm

Học phí:

Học Hán ngữ 12000 nhân dân tệ/năm, 6000 tệ/một học kì, 4500 tệ/3 tháng, 3000 tệ/2 tháng, 2000 tệ/1 tháng

Các chi phí khác: phí báo danh 300 tệ, phí bảo hiểm 500 tệ/năm, phí khám sức khỏe 350 tệ, phí visa 400 tệ/năm.

Mc Tiệc Cưới, Học Làm Mc Đám Cưới, Video Đám Cưới Hay Nhất: Tổng Quan Dân Tộc Thổ (Vi Đức Hồi)

Dân số: 74.458 người (2009).

Ngôn Ngữ: thuộc nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, ngữ hệ Nam Á.

Tên gọi khác: Người Nhà Làng, Mường, Con Kha, Xá Lá Vàng…

Nhóm địa phương: Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai, Ly Hà, Tày Pọng…

Địa bàn cư trú: Lâm Đồng, Thanh Hóa, Đồng Nai, Đắk Lắk , Bình Dương, Tp.Hồ Chí Minh, Điện Biên, Đắk Nông, Hà Nội.

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thổ ở Việt Nam có dân số 74.458 người, có mặt tại 60 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Thổ cư trú tập trung tại tỉnh Nghệ An (59.579 người, chiếm 80,0% tổng số người Thổ tại Việt Nam), Thanh Hóa (9.652 người, chiếm 13,0% tổng số người Thổ tại Việt Nam), Lâm Đồng (966 người), Đồng Nai (657 người), Đắk Lắk (541 người), Bình Dương (510 người), thành phố Hồ Chí Minh (362 người), Điện Biên (226 người), Đắk Nông (216 người), Hà Nội (211 người)

2. Kinh Tế Truyền Thống

Cây trồng chính là lúa nương và gai. Người Thổ đến cư trú ở vùng đất này từ nhiều thể kỷ trước, khi đó đất rộng, người thưa, đồng bào tự do chọn đất khai phá để sản xuất. Mỗi mảnh nương họ thường sử dụng ba, bốn vụ rồi bỏ hoang.

Trước kia người Thổ canh tác dùng gậy chọc lỗ, nhưng về sau đã sử dụng sức kéo, dùng cày để làm đất. Chiếc gậy chọc lỗ thường được làm bằng cây kiền kiển, dài khoảng một sải rưỡi, gọi là cần món, tức lủ cày của người Mọn. Tiếng Thổ, chọc lỗ là tẩm, gieo hạt là rói. Theo tập quán của đồng bào, thông thường cứ Ba nam chọc lỗ thì bảy nữ theo sau tra hạt. Kỹ thuật dùng gậy chọc lỗ trong canh tác thường chỉ được sử dụng ở trên nương mới năm đầu khai phá. Vì lúc đó trên mặt đất còn nhiều mùn, dùng gậy chọc lỗ, ít làm xáo trộn đất trên mặt nương, do đó khi mưa xuống ít bị trôi mùn đi.

Đồng bào Thổ thường chỉ dùng cày để làm đất đối với nương sử dụng từ năm thứ hai trở đi. Chiếc cày được gọi là nôn, có hình dáng giống chiếc cày chìa vôi. Với nương dùng cày, sau khi dọn sạch nương, người ta gieo vãi hạt giống, rồi cày lấp hạt, tiếp đó người ta bừa lấp hạt giống xuống dưới đất để chim muông khỏi nhặt ăn.

Cùng với cây lúa, người Thổ còn trồng các loại cây lương thực phụ như ngô, khoai, sắn. Những cây lương thực phụ này, khi mùa màng thất bát thì dùng làm lương thực, còn bình thường nó là thức ăn chăn nuôi: lợn, gà, vịt,… Bên cạnh cây lương thực, một nét đặc trưng của trồng trọt người Thổ là đồng bào người Thổ ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp trồng cây gai. Đồng bào Thổ trồng nhiều cây gai để lấy sợi đan võng nằm, đan lưới săn thú, lưới đánh cá, đồ đựng, đan túi đeo.

Người Thổ chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm như các dân tộc khác trong vùng. Những con vật nuôi trong từng gia đình thường là trâu, bò, lợn, gà, vịt, chó, mèo,… Phương thức chăn nuôi cũng là chăn thả, chăn ở nhà hai bữa: sáng sớm và chiều tối, còn cả ngày thả tự đi tìm kiếm ăn, tối lùa chúng về chuồng. Người Thổ nuôi trâu, bò để kéo cày và làm vật hiến sinh, hoặc làm thịt ăn trong các dịp cưới xin, ma chay, các ngày lễ hội lớn của dân tộc. Các con lợn, gà, vịt được nuôi nhiều hơn đại gia súc và cũng nhằm phục vụ cho cúng bái và ăn thịt.

2.3. Khai thác tự nhiên

Sinh sống ở vùng núi rừng tỉnh Nghệ An, người Thổ cũng như các dân tộc khác đã tận dụng nguồn tài nguyên lâm thổ sản, thuỷ sản từ rừng và các dòng sông nơi đồng bào cư trú.

Đồng bào Thổ thu hái các loại rau rừng như: bạ, chặc, pứ, cạch côi, khả, lột, đâm cu, băng, mảu; các loại củ như: chè cù, chè pô, da nắm, nu; các loại quả như: tlai, chu, quẹo, phổ, bẳm, sỉ, khởi, căm, khim, nương, quả thị xanh, củ cải, củ mài, quả tre rừng. Mùa nào thức ấy, các loại rau, củ, hoa quả dại trên rừng thực sự có mặt thường xuyên trong nhà đồng bào và tham gia vào bữa ăn hàng ngày của từng gia đình.

Người Thổ thường săn thú rừng như mọi dân tộc khác. Tuy nhiên nét đặc trưng trong săn bắn thú rừng của người Thổ là người ta tổ chức săn bằng lưới. Một tấm lưới dùng để săn thú thường có độ dài trung bình là 9 – lOm, rộng khoảng 3 – 4m, sợi dây gai to tròn với tiết diện khoảng l,5cm, được đan hình mắc áo với trọng lượng khoảng 30 – 40kg. Người ta tổ chức săn đuổi con thú bằng chó đi lùng sục và người khua chiêng đánh trống ầm ĩ trong rừng sâu, làm con thú sợ, tìm đường chạy trốn. Người địa phương quen đường đi lối lại của con thú, đặt lưới trên đường con thú hay qua lại. Khi động, bị chó sục sạo, người xua đuổi, con thú chạy ra bị mắc vào lưới, không chạy được nữa. Lúc đó người ta dùng giáo sắt sắc đâm chết con thú. Người Thổ còn tổ chức đánh bẫy các con thú: voi, bò tót, cầy, cáo, nhím, chim các loại. Hố bẫy voi đào sâu đến 7m, trên miệng hố làm “sàn”, trên “sàn” phù lớp đất mỏng, hoá trang giống như đường đi bình thường. Con voi đi qua, giẫm lên sàn, sàn sập, sa xuống hố, không lên được nữa. Khi đó đồng bào Thổ dùng dao sắc chặt vòi, giết chết con voi. Bầy bò tót thường bẫy bằng thòng lọng lớn. Khi bò tót chui đầu vào thòng lọng, thòng lọng chịt giữa cổ con vật, con vật không đi được nữa, khi đó người ta bắt sống con vật. Đồng bào Thổ còn làm các loại bẫy nhỏ hơn để bắt hươu, nai, hoẵng. Các loại bẫy nhỏ thường dùng nguyên tắc cần bật; dùng mũi tên “tự động” để bắt hổ, báo, gấu, lợn rừng. Nghề săn thú rừng có ý nghĩa quan trọng đối với người Thổ, bởi nó vừa bảo vệ mùa màng, vừa bảo vệ người và các con vật nuôi trong từng gia đình. Chính vì vậy, trong người Thổ hình thành những quy định về phân chia thành quả săn bắn được.

Người Thổ cũng thường hay đánh bắt các loại thuỷ sản trên sông cá, tôm, cua, ốc, trai, hến. Đồng bào Thổ có cách bắt cá cổ truyền, ít thấy ở dân tộc khác. Trên dòng sông Dinh, sông Hiếu, lòng sông rộng, nước chảy mạnh, về đêm, bằng tay không đồng bào bắt được cá ngủ (gọi là bắt cá “nạc”), tức là bắt cá theo kiểu con rái cá. Việc bắt cá ngủ với khối lượng lớn đòi hỏi phải có trình độ đạt mức kỹ năng, kỹ xảo cao trong nghề đánh bắt cá. Dụng cụ đánh bắt cá ở đây cũng có nét độc đáo: hom giỏ kết bằng tai hoa mây (lá ngáng), xúc vợt (việc), vó trời (cuộng), , chài,…

2.4. Ngành nghề thủ công

Người Thổ có nghề thủ công tương đối phát triển là nghề đan lưới bằng dây gai và nghề đan mây, tre.

Nghề đan lưới bằng sợi gai phát triển ở vùng Nghĩa Đàn, Quý Châu, Quỳ Hợp. Ở đây, người Thổ đan võng nằm, đan lưới săn thú rừng, đan lưới đánh bắt cá, đan túi đeo,… Võng nằm có nhiều cỡ, rộng, hẹp, dài, ngắn khác nhau. Nhưng người Thổ quen phân biệt võng theo “mát” võng bốn mặt, hoặc võng ba mặt, tức là tính theo số sợi gai cấu tạo nên mắt võng. Võng bốn mắt tốn gai hơn, công bện lâu hơn, nhưng lại bền, đẹp hơn, được ưa dùng hơn. Lưới săn thú rừng thường được đan với sợi gai to, cỡ bằng ngón tay cái, lộ mắt cáo rộng tới 15- 20cm. Lưới săn thú rừng thường có hình chữ nhật, chiều rộng khoảng 3 – 4m, chiều dài khoảng 15 – 20m. Người Thổ còn đan lưới đánh cá trên các sông, đan rìu – chiếc túi lưới luôn mang theo bên người để đựng măng, nấm, rau, quả dại hái được ở trên rừng. Lưới đánh cá và rìu được đan bằng sợi gai nhỏ và mắt cáo nhỏ.

Nghề đan mây, tre phát triển ở vùng Con Cuông, Tương Dương. Những sản phẩm đan mây, tre được nhiều người ưa thích như: ghế mây, mâm mây, bồ đựng quần áo, hộp đựng kim chỉ. Đó là các sản phấm của cư dân Đan Lai, Ly Hà, Tày Poọng.

2.5. Trao đổi, mua bán

Sống trong nền kinh tế tự túc, tự cấp, nhưng người Thổ không phát triển nghề dệt, mà lại phát triển nghề thủ công đan lưới và đan mây, tre, cho nên, việc trao đổi mua bán hàng hoá ở người Thổ khá phát triển. Nét mang tính đặc trưng ở đây là người Thổ thường lấy sản phẩm thủ công của mình là võng nằm, lưới đánh cá, ghế mây, mâm mây, bồ đựng quần áo bằng mây ra chợ bán để lấy tiền mua vải may quần áo, hoặc đôi khi mua ngay quần áo may sẵn như váy người Thái để mặc. Đồng bào Thổ còn lấy lâm thổ sản ra chợ bán hoặc đổi lấy muối ăn, xoong, nồi, dao, cuốc, kim khâu, dầu thắp, giấy vở cho trẻ em đi học; mua chỉ thêu, đồ trang sức làm đẹp cho phụ nữ.

3. Văn hoá truyền thống

Người Thổ cư trú thành từng bản, mỗi bản có từ chục đến vài chục nóc nhà. Nơi chọn làm bản thường là sườn đồi núi, hoặc dọc theo các dòng sông, gần nương, gần nguồn nước. Trong bản thường có nhiều dòng họ cùng cư trú, trong các dòng họ đó có một dòng họ có ưu thế về số lượng người cũng như về khả năng kinh tế và quan hệ xã hội. Trong làng có miếu thờ thổ công. Miếu làng có giá trị tập hợp dân làng không phân biệt giàu, nghèo, không phân biệt dân tộc theo ý thức tôn giáo.

Làng là đơn vị xã hội nhỏ nhất. Đứng đầu làng là ông trùm làng, được dân làng bầu lại hàng năm. Trùm làng có nhiệm vụ quan trọng nhất là đốc thúc các công việc sưu dịch, thuế khoá và những khoản đóng góp khác của làng mình lên cấp trên theo quy định của quan trên. Ngoài ra, trùm làng còn đảm đương việc cai quản xây dựng, sửa sang, tu bổ các đền, miếu, cũng như cai quản các ông từ trông coi các đền miếu trong làng. Trùm làng là người chủ trì buổi lễ xin ý kiến thần linh bổ nhiệm người chủ cho mỗi vụ gieo trồng; là người xử phạt các vụ chửa hoang, ngoại tình ở trong làng. Những gia đình có con cái mắc tội chửa hoang, những người ngoại tình, phải nộp phạt cho dân làng, nhưng thực chất những hiện vật, hoặc tiền nộp phạt đó, đều vào tay trùm làng. Cùng với trùm làng, ở mỗi làng còn có ông cậu trông coi việc giấy tờ và một số tuần giữ gìn an ninh. Người dân cư trú trong làng, ngoài việc đóng, góp cho quan trên, hàng năm còn phải đến làm rẫy cho trùm làng-, đồng thời phải biếu xén, lễ lạt mỗi khi trong nhà trùm làng có công, có việc. Ở một vài nơi, trong làng có chủ sắc chuyên việc cúng lễ, được làng giao cho vài ba sào ruộng, để sản xuất và dùng vào việc cúng lễ đó.

Về mối quan hệ giữa các gia đình trong làng, nét nổi bật nhất là tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Biểu hiện chính của tinh thần này là sự giúp nhau trong việc dựng nhà, có quy định về góp công sức, vật liệu cho gia đình làm nhà mới.

Phần lớn người Thổ ở nhà sàn. Nguyên vật liệu làm nhà là gỗ, tre, nứa, lá có sẵn tại chỗ, ở trong làng. Khi cần làm nhà, người ta vào rừng chọn nguvên vật liệu lấy về dựng nhà, không cần mua bán. Nhà thường được dựng đơn giản, cột ngoãm, chôn cột xuống đất. Do vùng miền núi Nghệ An nhiều rừng, lắm cây, kỹ thuật làm nhà đơn giản, cho nên dụng cụ làm nhà cũng đơn giản chỉ cần một con dao, một chiếc rìu là có thể dựng được ngôi nhà thông thường.

3.3. Y phục, trang sức

Do nhiều nguồn di cư từ nhiều nơi khác nhau đến và trong tâm trạng cũng muốn “lánh xa” tiếp xúc xã hội, cho nên, người Thổ không phát triển nghề dệt, không tự sản xuất ra vải làm trang phục, mà chủ yếu là do đổi chác với các cư dân khác trong vùng, cho nên trang phục của người Thổ có tính phụ thuộc, có nhiều nét dị biệt, thiếu đồng bộ. Đàn ông Thổ mặc tương tự như người Kinh với chiếc quần tráng, cạp vấn, chiếc áo dài lương đen và đầu đội khăn nhiễu tím. Trang phục phụ nữ Thổ, tuỳ từng vùng có những khác biệt. Ở vùng Lâm La (huyện Quỳ Hợp), phụ nữ mặc váy vải sợi bông màu đen giống như người Kinh, có thêu thêm hai đường chỉ màu từ cạp xuống tới gấu váy dọc theo hai bên sườn; mặc áo năm thân vải sợi bông, nhuộm màu nâu hoặc để nguyên trắng, tương tự như trang phục của phụ nữ Kinh. Ở vùng khác thuộc huyện Quỳ Hợp, chị em phụ nữ thường mua, hoặc đổi lấy váy người Thái về mặc. Đó là chiếc váy sợi bông, nhuộm chàm, dệt kẻ sọc ngang. Khi mặc, những đường sọc của váy tạo thành các đường trong song song xung quanh thân người. Một số người còn mặc váy có thêu hoa văn hoặc san bằng vải sợi tơ dệt hoa văn ở phần chân váy. Áo phụ nữ vùng này là chiếc áo cánh trắng cổ viền, ống tay hẹp, tương tự như áo phụ nữ người Kinh. Ở các vùng trên, phụ nữ đều đội khăn vuông trắng, giống như người Mường và để tang bằng khăn dài trắng giống như người Kinh.

Bánh đầu chó- món bánh nổi tiếng của người Thổ (Ảnh sưu tầm)

Bữa ăn thường ngày của người Thổ là cơm rau. Thịt, cá không có trong thực đơn thường ngày. Hàng ngày, đi làm, gặp cơ hội, săn bắn được con chim, con thú, hoặc đánh bắt được con cá, con tôm thì chế biến làm thực phẩm ăn luôn. Những gia súc, gia cầm nuôi trong nhà thường được giết mổ trong các dịp có cúng bái, sau đó dùng để ăn. Thường ngày cũng có khi làm thịt gà, vịt, trong trường hợp có khách quý, thông gia đến thăm gia đình.

3.5. Phương tiện vận chuyển

Cũng như các dân tộc khác, người Thổ sử dụng gùi như công cụ vận chuyển hàng.

Tiếng nói: Tiếng nói của dân tộc Thổ thuộc hệ ngôn ngữ Nam Á, nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer. Tiếng nói của các nhóm có sự khác nhau.Tiếng nói của nhóm cư dân Cuối được nhiều nhà nghiên cứu dân tộc học gọi là tiếng nói của lớp cư dân bản địa. Tiếng của họ có nhiều yếu tố giống tiếng nói của cư dân Đan Lai, Ly Hà, Tày Poọng. Đây là nhóm cư dân có tiếng nói mang nhiều yếu tố cổ xưa hơn cả. Tuy nhiên, cư dân các nhóm khác nhau vẫn có thể giao tiếp với nhau được bằng tiếng mẹ đẻ của mình.

Môi trường xã hội của người Thổ là các dân tộc nói tiếng Thái, tiếng Kinh. Sinh sống lâu năm trong môi trường xã hội đó, hầu như tất cả người Thổ đều biết tiếng Thái và tiếng Kinh (Việt).

Chữ viết: Người Thổ chưa có chữ viết riêng của dân tộc mình. Sau này, người Thổ học tiếng Việt và sử dụng chữ Quốc Ngữ (tiếng Việt). Ngày nay tiếng Việt và chữ Quốc Ngữ được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống của người Thổ.

3.7. Tín ngưỡng tôn giáo

Người Thổ tin vào đa thần, quan niệm “vạn vật hữu linh”, mọi vật đều có linh hồn. Quan niệm của đồng bào về cõi âm khá phức tạp, có đủ các loại ma thần khác nhau. Người Thổ cho rằng, thần ở trên trời, ma ở dưới đất, có những người lùn ở dưới mặt đất, có “tó khụ ” – con thuồng luồng ở dưới nước. Có làng thờ hàng chục vị thần (14 – 15 vị), bao gồm nhiên thần, nhân thần và những vật vô tri, vô giác. Đó là các vị thần Đông, thần Tây, thần Đức Ồng, thần Thuỷ Te… Có nơi còn thờ cả thần Cao Sơn, thần Cả – Anh Cả, thần Đẹt – Em bé. Người Thổ cho rằng, cỏ ma ở khắp nơi: ma đồng, ma bãi, ma nhà, ma cây đa đầu làng, ma trẻ em chết yểu. Đồng bào thờ những người có công khai phá đất đai, những người có công đánh giặc.

Trong phạm vi gia đình, người Thổ thờ cúng tổ tiên, bên cạnh đó thường cúng bà mụ, mỗi khi có trẻ bị ốm đau, cúng vía cho người lớn vào những dịp lễ, tết và khi đau ốm. Một nét đáng chú ý là trong nghi lễ cúng bái, các thầy mo người Thổ thường cúng ma, cúng thần linh các loại ví” cúng chữa bệnh trừ tà đuổi quỷ cho người ốm đau bằng tiếng Cuối, nhưng lại cúng tổ tiên gia đình của mình bằng tiếng phiên âm Hán – Việt.

Lễ xuống đồng của người Thổ (Ảnh sưu tầm)

Phụ nữ Thổ hát múa (Ảnh sưu tầm)

Văn học dân gian của người Thổ khá phong phú và đặc sắc.vốn văn vần: ca dao, đồng dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố, giải đố tồn tại từ lâu đời, được nhiều người biết và sử dụng thành thạo trong cuộc sống. Phải chăng điều này gắn với việc trước đây đồng bào Thổ chưa dùng chữ viết. Tục hát ví – hát bạn, hát “nhà tơ” – lối hát ví dặm vốn là hát của người Kinh được lưu truyền trong dân tộc Thổ. Phần lớn các bài hát kể về sự tích đều được kể bằng tiếng Cuối. Tục kể đắng – một hình thức kể chuyện sự tích, có nhân vật, có tình tiết khá hấp dẫn. Những chuyện kể về người có công lập làng, dựng bản, khai phá đất đai, tạo ra nương rẫy được các cụ già cao tuổi ưa thích và hay kể cho con cháu nghe. Các làn điệu dân ca: đu đu điềng điềng, tập tính tập tang là những làn điệu dân ca mang nét đặc sắc của dân tộc Thổ. Trong các bài hát dân ca, đâu đó còn nhiều sự pha trộn giữa tiếng Thổ với tiếng Kinh ở Nghệ An.

Mỗi ngôi nhà là nơi ở của một gia đình. Gia đình người Thổ là gia đình phụ hệ nhỏ. Trong gia đình thường chỉ có hai thế hệ là bố mẹ và các con cái của họ. Một số gia đình còn có thêm ông bà, khi ông bà còn sống. Con cái sinh ra trong gia đình được tính theo dòng bố; các con trai được quyền kế thừa tài sản do cha mẹ để lại, có nghĩa vụ thờ cúng, chăm sóc mồ mả của tổ tiên. Con gái đi lấy chồng, được bố mẹ chia cho ít của hồi môn và về nhà chồng hưởng tài sản bên nhà chồng.

Gia đình người Thổ còn là gia đình phụ quyền. Trong gia đình, người chồng, người cha có quyền hành lớn giải quyết các công việc hệ trọng như: sản xuất, làm nhà, cưới xin, ma chay, quan hệ dòng tộc, ứng xử cộng đồng,… Người con trai cả cũng là người có quyền lớn hơn cả người mẹ, sau khi bố mất.

Trong gia đình người Thổ, quan hệ giữa các thành viên đều bình đẳng, cùng lao động, cùng hưởng thụ sản phẩm làm ra, không phân biệt con trai hay con gái. Tuy nhiên, với người già, trẻ em, phụ nữ chửa đẻ thường chỉ làm việc nhẹ nhàng trong gia đình.

Người Thổ có chế độ hôn nhân ngoại hôn dòng tộc. Quan hệ hôn nhân giữa những người trong cùng huyết thống bị nghiêm cấm, coi đó là sự loạn luân không thể chấp nhận được và bị phạt rất nặng. Trước đây, người Thổ chủ yếu kết hôn giữa những người cùng dân tộc Thổ. Hiện tượng kết hôn với người dân tộc khác hầu như không có, có chăng là chỉ trường hợp lấy vợ lẽ.

Trước khi đi đến kết hôn, theo phong tục dân tộc, con trai, con gái người Thổ được tự do tìm hiểu người bạn đời của mình. Hình thức tìm hiểu của họ rất độc đáo. Theo phong tục này, trai, gái gặp nhau trong các dịp hội hè, lễ tết được tự do trao đổi tâm tình theo từng cặp trai gái một hay một số đôi trai gái. Cách tìm hiểu độc đáo là hiện tượng “ngủ mái”. Có thể một trai nằm trò chuyện cùng vài ba cô gái một lúc và ngược lại. Trong đêm ngủ mái, trai gái làm quen với nhau một cách lành mạnh, tôn trọng nhau, là những kỷ niệm trong sáng trong cuộc đời của con người. Tập quán dân tộc không chấp nhận ngủ mái có cử chỉ sàm sỡ. Ai vi phạm sẽ bị cộng đồng lên án, coi thường, ghẻ lạnh và sau đó khó có cơ hội “ngủ mái” khác trong tuổi trẻ của mình. Từ những đêm “ngủ mái” có nhiều đôi lứa dần dần hình thành, dẫn tới việc tiến hành những nghi thức cho một cuộc hôn nhân theo phong tục dân tộc.

Tục lệ cưới xin của dân tộc Thổ gồm lễ ăn hỏi, thăm hỏi hàng tháng, lễ cưới. Nhà trai nhờ người làm mối – ông Pin đến nhà gái đặt vấn đề chính thức ăn hỏi cô gái làm con dâu gia đình nhà trai. Khi được nhà gái nhận lời, hai gia đình quan hệ thăm hỏi thường xuyên với nhau trong vài ba năm trước khi tổ chức lễ cưới. Trong thời gian ba năm quan hệ thăm hỏi này, chàng trai phải có lễ thăm nhà gái đều đặn mỗi tháng một lần. Lễ vật thăm hỏi thông thường là bốn chiếc bánh chưng, một ché rượu. Nếu chàng trai tự ý bỏ thăm hỏi một lần, coi như bỏ vợ. Ngoài lễ thăm hỏi hàng tháng, trong những dịp tết Nguyên đán, lễ mồng 5 rằm tháng Bảy, lễ cơm mới, chàng trai đều phải có lễ lớn hơn gồm một thúng xôi và nhiều rượu thịt đến thăm nhà cô gái. Cũng trong thời giann chờ cưới đó, vào những ngày mùa chàng trai luôn phải tham gia lao động nặng nhọc ở bên nhà gái. Khi tổ chức lễ cưới, mọi chi phí do nhà trai chịu. Thông thường, nhà trai phải dẫn một con trâu, 100 đồng bạc trắng, 30 vuông vải mộc trả ơn công mẹ đẻ, 6 thúng xôi, một con lợn.

3.12. Tập quán tang ma

Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, coi người khi sống không chỉ có xác, mà còn có hồn-linh hồn. Xác sẽ bị huỷ hoại, nhưng hồn còn sống mãi với thời gian. Do vậy, khi có người chết, người ta bày tỏ lòng thương nhớ đối với người chết thông qua việc làm tang ma. Người chết được gọi hồn vía về để nhập liệm, rồi làm cỗ bàn cúng tế trong nhiều ngày. Thời gian quàn linh cữu ở trong nhà, tuỳ theo khả năng kinh tế của từng gia đình. Những gia đình giàu cỏ quàn trong nhà cả tuần, còn gia đình khó khăn về kinh tế chỉ quàn trong nhà vài ba ngày. Suốt trong thời gian quàn linh cữu trong nhà, người ta tổ chức ăn uống rất tốn kém, gia đình nhà giàu có, mổ vài con trâu làm tang lễ và cỗ bàn mời người đến giúp tang chủ làm tang lễ.

Sau khi mai táng, người Thổ tổ chức các lễ cúng 3 ngày, 50 ngày và 100 ngày, tương tự như tập quán người Kinh trong vùng. Người Thổ không có tục bốc mả. Hàng năm vào dịp tết Nguyên đán, đồng bào tổ chức quét mả, mời tổ tiên về ăn tết cùng con cháu gia đình. Còn vào các dịp tết Đoan ngọ (5 – 5), tết Trung nguyên (15 – 7), tết Cơm mới (10 – 10) đều được đồng bào tổ chức cúng bái chu đáo, thể hiện lòng kính trọng tổ tiên – cội nguồn sinh ra mình.

Share : Tổng Quan Dân Tộc Thổ (Vi Đức Hồi)

Tổng Quan Dân Tộc Thổ (Vi Đức Hồi)

Oleh quang pham