Học Tiếng Dân Tộc Sán Dìu / Top 9 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Theolympiashools.edu.vn

Hát Soọng Cô: Nét Độc Đáo Của Dân Tộc Sán Dìu

(VOV5) – Soọng Cô là làn điệu dân ca đặc sắc của đồng bào dân tộc Sán Dìu, được lưu giữ hàng trăm năm qua.

Cũng như những dân tộc anh em khác, đồng bào dân tộc Sán Dìu ở các tỉnh miền núi trung du phía Bắc Việt Nam có tiếng nói, chữ viết và kho tàng văn hóa nghệ thuật mang bản sắc riêng. Trong đó Soọng Cô là làn điệu dân ca đặc sắc của đồng bào dân tộc Sán Dìu, được lưu giữ hàng trăm năm qua.

Làn điệu Soọng Cô ở nhiều địa phương được bà con Sán Sìu gìn giữ – Ảnh: baothainguyen

Trong nhiều lời bài hát cổ người Sán Dìu vẫn nhớ về cội nguồn của làn điệu dân tộc mình. Truyền thuyết kể lại rằng trời đất còn gần nhau, có một làng quê đông đúc trù phú soi bóng xuống dòng sông thơ mộng. Bỗng một hôm ông trời nổi giận cho nước sông dâng cao làm chết muôn loài. Trong làng có hai chị em họ nhanh chân chui vào quả bầu khô, nổi lên theo dòng nước nên sống sót. Khi nước rút vì trong vùng không còn ai nên họ đành lấy nhau sinh nhiều con cháu làm cho người Sán Dìu hồi sinh trở lại. Tuy làng đông người nhưng đều là con cháu cùng huyết thống không thể lấy nhau nên phải sang làng khác tìm hiểu. Để bạn tình ở làng bên rung động, họ dùng tiếng hát để diễn tả lòng mình. Điệu hát Soọng Cô ra đời từ đó và tồn tại đến nay. Ông Nguyễn Phong Doanh, nhà nghiên cứu các điệu múa và dân ca các dân tộc thiểu số, cho biết: “Sán Dìu là dân tộc có lịch sử văn hóa truyền thống lâu đời. Hiện nay các làn điệu dân ca Soong cô cổ hầu như chỉ còn lưu giữ trong một số người làm nghề thày cúng, bởi họ được học chữ Nôm Sán Dìu. Hiện các sưu tầm cũng đã in thành sách dày khoảng 300-400 trang dân ca dân tộc Sán Dìu”.

Lời ca và giai điệu của Soọng Cô không hề khô cứng mà mềm dẻo đầy sức lan tỏa, diễn tả tâm tư tình cảm của người hát, làm mê đắm lòng người. Họ hát những câu hát nói về tình yêu lứa đôi, thiên nhiên, ca ngợi tình nghĩa thuỷ chung vợ chồng, ca ngợi công lao ông bà, cha mẹ, răn dạy con người sống có đức, có nhân, có hiếu… khi cất lên nghe thật dặt dìu, réo rắt, lúc ngân cao, lúc trầm ấm làm say đắm lòng người. Hát Soọng Cô chủ yếu là phần đối đáp giao duyên, sau đó là phần hát trong đám cưới. Soọng Cô được hát theo sách, có bài bản sẵn. Người đi hát phải thuộc sách hát, họ dẫn câu hát trong sách ra để hát đố, người đáp cũng trích ra những câu hợp cảnh hợp tình để hát đáp câu hỏi. Ông Hoàng Văn Thạch nhà nghiên cứu hát dân ca dân tộc Sán Dìu cho biết: “Đặc điểm các bài hát dân ca của dân tộc Sán Dìu thường có 4 câu 7 chữ, gọi là ” thất ngôn tứ tuyệt hoặc 28 chữ hay 24 chữ. Những bài hát chủ yếu sử dụng ngôn ngữ Hán Nôm. Lời bài hát có nhiều ẩn ý nhiều khi phải suy ra nên lời bài hát rất uyên thâm”.

Những câu hát Soọng Cô không bị giới hạn bởi không gian, thời gian, hoàn cảnh. Người ta có thể hát một đêm, nhiều đêm, hát trong nhà, hát khi đi làm nương hay trong các lễ hội. Chính vì vậy, hát Soọng Cô đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của đồng bào dân tộc Sán Dìu. Tuy nhiên hiện nay, một số bài hát truyền khẩu đang đứng trước nguy cơ thất truyền, do những người biết hát Soọng Cô đều đã ở tuổi xế chiều, đặc biệt lớp trẻ của đồng bào dân tộc Sán Dìu không sử dụng thành thạo ngôn ngữ của dân tộc mình nên việc học hát cũng là một khó khăn lớn để bảo tồn loại hình dân gian này. Trước thực trạng này, nhiều địa phương đã tổ chức các câu lạc bô, mời các nghệ nhân mở các lớp truyền dạy hát Soong cô cho lớp trẻ. Bà Đào Thị Nghi, nghệ nhân hát Soọng Cô ở tỉnh Bắc Giang, cho biết: “Tôi cố gắng mở lớp truyền dạy cho các cháu để các cháu hiểu bài hát, hiểu lời ăn tiếng nói của dân tộc mình và từ đó giúp các cháu giữ bản sắc văn hóa. Một số bài hát cổ chúng tôi dịch ra tiếng phổ thông giúp các cháu hiểu”.

Để bảo tồn và phát huy giá trị của làn điệu hát Soọng Cô, nhiều nơi khuyến khích thành lập nhiều CLB văn nghệ quần chúng ở các địa phương, đồng thời sưu tầm, dàn dựng, lồng ghép các tiết mục hát Soọng Cô vào các chương trình biểu diễn văn hóa, nghệ thuật. Đưa môn nghệ thuật này phục vụ thường xuyên đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa.

Tô Tuấn

Đôi Chân Diệu Kỳ Của Cô Học Trò Người Dân Tộc Sán Dìu

Nhìn những nét chữ đẹp đẽ, ngay ngắn trên những trang vở sạch sẽ, thỉnh thoảng lại có dòng bút đỏ “Cô khen”, ít ai có thể tưởng tượng được, chúng được viết ra từ đôi chân của cô bé khuyết tật Linh Thị Hồng.

Nét chữ được viết bằng chân của em Linh Thị Hồng

Quan sát một giờ học thông qua camera tại lớp, không khỏi xúc động khi chứng kiến tư thế ngồi học đầy vất vả của Linh Thị Hồng – lớp 3A2 Trường Tiểu học Ngọc Thanh C (Phúc Yên, Vĩnh Phúc). Do viết bằng chân nên trong lớp, Hồng được bố trí ngồi chiếu, gần bục giảng.

Em rất chăm chú nghe cô hướng dẫn, miệt mài ghi chép bài vào vở. Chân phải luôn kẹp chiếc bút máy, khi viết, em phải cúi khom lưng, rạp người về phía trước, mặt chỉ cách trang vở khoảng 30cm, chân cẩn thận đưa từng nét chữ tròn trịa.

Tư thế ấy, cộng với thời tiết nắng nóng cao điểm của tháng 6, lớp học tầng 2 không có điều hòa, gương mặt lấm tấm mồ hôi nhưng dường như, khó khăn từ ngoại cảnh không làm lay động tâm trí em.

Các thao tác như viết, đặt thước kẻ bài, thay mực cho bút máy, lấy và mở sách vở… được em thực hiện bằng hai chân hết sức nhẹ nhàng, thuần thục. Cô bé thực hiện mọi yêu cầu của cô giáo với sự nhẫn nại và hiệu suất cao nhất.

Linh Thị Hồng ngồi chiếu nghe cô giảng bài

Kiên trì, bền bỉ

Linh Thị Hồng là người dân tộc Sán Dìu. Ngôi trường em học nằm trên địa bàn xã miền núi duy nhất của thành phố Phúc Yên với gần nửa (147/312) học sinh là người dân tộc thiểu số.

Theo cô giáo Đỗ Thị Thanh Vân – Hiệu trưởng, Hồng là học sinh khó khăn nhất trong sinh hoạt và học tập, vì từ khi sinh ra, em đã dị tật 2 cánh tay. Ẩn sau vẻ ngoài ít nói, là một cô bé đầy nghị lực, thông minh, hiếu học.

Hồng cặm cụi bên trang viết

Sinh năm 2007, đáng lẽ Hồng đã học lớp 7, nhưng do bệnh tật, sức khỏe yếu nên 10 tuổi, em mới bắt đầu học lớp 1.

Nhớ lại quãng thời gian đồng hành cùng con gái đầu lòng ở viện nhiều hơn ở nhà, anh Linh Văn Ba – bố của Hồng cho biết, em bị bệnh về tiêu hóa, có năm phải mổ 4 lần.

Năm 2023, khi ấy Hồng 8 tuổi, “địa chỉ thường trú” của 2 bố con là Bệnh viện Nhi trung ương. Nằm viện lâu, các bác sĩ động viên bố đưa em xuống lớp trẻ của bệnh viện để chơi cho “đỡ chán”. Ở đó có nhiều đồ chơi, sách truyện, cô bé khuyết tật đã tỏ ra rất thích thú.

Khi đỡ bệnh, trở về nhà, Hồng được đi học mẫu giáo. Đến khi em trai thứ hai của Hồng chuẩn bị vào lớp 1, thấy bố mẹ kèm em tập tô chữ, Hồng đòi bố mẹ cho học cùng.

“Con thích viết và tự rèn luyện, tự học. Nét nào viết sai hay chưa đẹp, con tự sửa lại ngay. Trải qua thời gian, dưới sự chỉ bảo của các cô giáo, con đã có được nét chữ sạch đẹp như ngày hôm nay” – anh Linh Văn Ba chia sẻ.

Không chỉ viết chữ đẹp, vẽ đẹp, Hồng còn yêu thích làm đồ thủ công, may vá.

Thời gian rảnh, Hồng tự cắt may quần áo búp bê – Ảnh: Gia đình cung cấp

Cô giáo Hiệu trưởng cho biết, nhà trường sẽ giúp Hồng tăng khả năng giao tiếp, tự tin để năm học tới đưa em tham dự giao lưu “Tiếng Việt của chúng em” dành cho học sinh dân tộc thiểu số. Cô tin tưởng, Hồng sẽ tỏa sáng.

Lớp học của tình yêu thương

Gây ấn tượng bằng nét chữ, nhưng theo cô giáo chủ nhiệm Hoàng Thị Nhàn, Toán là môn học nổi bật nhất của Linh Thị Hồng. Có lẽ, là học sinh lớn tuổi nhất lớp nên em có sự tập trung, tiếp thu và tính toán rất nhanh, luôn nằm trong nhóm học tốt của lớp.

Bạn Lã Thị Thanh Thúy cùng lớp cho biết, do Hồng học tốt nên vài lần chưa hiểu bài Toán, em thường đem hỏi Hồng.

Các bạn học sinh còn vui vẻ khoe, cô giáo chủ nhiệm rất quan tâm đến Hồng, thường gọi bạn trả lời câu hỏi hay đọc bài. Theo phân công của cô, hàng ngày, các bạn trong lớp trải và cất chiếu cho Hồng trước và sau mỗi buổi học; giúp đeo khăn quàng và dẫn bạn đi vệ sinh.

Bạn Hồ Ngọc Phương Trinh kể, giờ ra chơi, các bạn thường rủ Hồng xuống sân, lúc thì chơi nhảy dây, lúc thì lên thư viện đọc sách, truyện. “Em luôn kể chuyện về Hồng cho bố mẹ nghe khi về nhà”.

Được biết, vài năm trước, gia đình Hồng thuộc diện hộ nghèo (nhà có 3 con nhỏ, riêng Hồng thường xuyên ở viện). Hiện nay, do mẹ em đi làm công nhân, thu nhập bình quân của gia đình đã thoát mức nghèo. Hồng được hưởng trợ cấp khuyết tật hơn 900.000 đồng/tháng, đồng thời, được miễn giảm các khoản đóng góp khi học tập.

Nguyễn Nga

Lên 4 tuổi, cậu học sinh nghèo Trần Việt Hoàng hỏng võng mạc dẫn đến bị mù. Nghị lực phi thường đã biến cuộc đời em thành ánh sao sáng trong đêm.

Người Sán Dìu Sáng Tạo Chữ Viết Cho Mình

(VOV4) – Theo giới nghiên cứu ngôn ngữ học, ngôn ngữ của người Sán Dìu thuộc nhóm Hán ngữ. Tiếng nói mang âm hưởng, ngữ nghĩa Hán và chữ viết cũng xuất phát từ chữ Hán. Họ dựa vào chữ Hán để tạo ra chữ Hán – Nôm Sán Dìu.

Thái Nguyên gần như là điểm cuối trong hành trình di cư sang Việt Nam khi xưa của người Sán Dìu. Ngày nay, ở vùng đất này, cộng đồng Sán Dìu chủ yếu sinh sống ven thành phố, có sự tiếp xúc, giao lưu mạnh mẽ với cộng đồng đa số. Vì thế, tiếng nói của người Sán Dìu ở Thái Nguyên đã có những biến chuyển lớn về mặt ngữ âm so với những người cùng nguồn gốc ở các địa phương khác.

Nhà nghiên cứu Diệp Trung Bình cho biết, ngôn ngữ của dân tộc mình gần giống ngôn ngữ của dân tộc Sán Chay: “Người Sán Dìu không như một số tộc người khác là ở mỗi vùng có tiếng nói khác nhau. Người Sán Dìu đồng nhất về mặt ngôn ngữ. Tuy nặng nhẹ một chút nhưng nói hiểu nhau hết, hát giao duyên cùng với nhau được. Ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Hán – Tạng. Chia nhỏ ra là nhóm Hán. Tiếng này là thổ ngữ Quảng Đông, gần với tiếng dân tộc Sán Chay. Nó không giống tiếng Dao nhưng lại thuộc ngôn ngữ Quảng Đông”.

Những cuốn sách chữ Nôm của dân tộc Sán Dìu được lưu giữ. Ảnh: chúng tôi

Người Sán Dìu ở Quảng Ninh hay Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Bắc Giang đều nói ngôn ngữ giống nhau. Tuy nhiên, ở Thái Nguyên, tiếng Sán Dìu phát âm nhẹ hơn, dễ nghe hơn. Theo ông Bình, tiếng Sán Dìu càng đi vào sâu, từ Đông sang Tây, càng nhẹ đi, ít ảnh hưởng ngôn ngữ Quảng Đông. Người Sán Dìu ở Quảng Ninh nói người Sán Dìu ở Thái Nguyên là Sán Dìu Việt. Tức là đã bị Việt hoá.

Ông Diệp Minh Tài, ở thôn Tam Thái, xã Hoá Thượng, huyện Đồng Hỷ (Thái Nguyên) nói rằng, Sán Dìu Thái Nguyên là Sán Dìu lai Việt: “Giọng nói không khác nhưng từ ngữ chuẩn hơn vì dùng toàn bộ chữ Hán biểu thị. Từ Thái Nguyên trở vào, bởi vì giao thoa văn hóa rồi, từ mới không biểu thị bằng tiếng dân tộc mà dùng tiếng phổ thông luôn. Giống như người Tày Định Hoá ấy, người ta nói đùa 10 câu Tày pha đến 4 câu Kinh. Dân tộc chúng tôi vùng này cũng thế”.

Trong cuộc sống hàng ngày, bà con sử dụng ngôn ngữ đã được Việt hoá. Chỉ trong những nghi lễ thờ cúng tổ tiên, thần linh, mới sử dụng ngôn ngữ cổ. Theo Tiến sỹ Nguyễn Thị Quế Loan, thần linh, tổ tiên không chấp nhận ngôn ngữ cúng không phải ngôn ngữ dân tộc mình:

“Do tiếp xúc với ngôn ngữ của tộc người khác, ngôn ngữ đồng bào mất dần đặc điểm gốc. Trong quá trình chúng tôi nghiên cứu, việc sử dụng ngôn ngữ tộc người trong thờ cúng ở mức độ tuyệt đối. Giải thích cho điều này, họ cho rằng vừa muốn bày tỏ tình cảm niềm tôn kính với tổ tiên, vừa lý do tín ngưỡng nữa. Trong quan niệm của họ, tổ tiên sẽ không chấp nhận lễ cúng với lời cúng thuộc ngôn ngữ khác”.

Cùng với chữ Nôm, người Sán Dìu dùng hệ thống chữ cái La tinh để phiên âm, ký âm tiếng nói của mình. Hệ thống phiên âm này cũng thể hiện rõ sự khác nhau trong ngôn ngữ của người Sán Dìu ở Thái Nguyên với các địa phương khác. Đặc biệt là trong lời các bài hát soọng cô.

Bài hát cổ của dân tộc Sán Dìu chép bằng chữ Hán. Nhưng bây giờ người hiểu biết chữ Hán rất ít nên bà con tạm viết ra chữ quốc ngữ, dịch ý là chính. Ông Diệp Minh Tài là người mê soọng cô. Ông giữ được một số bản chép tay phiên âm các bài hát của dân tộc. So sánh lời bài hát soong cô của người Sán Dìu ở Thái Nguyên với Quảng Ninh, Bắc Giang, ông thấy người Sán Dìu ở Thái Nguyên dùng nhiều từ Hán Việt hơn. Trong khi đó, ở các địa phương khác, lời bài hát hầu như giữ nguyên gốc Hán.

Ông Tài cũng từng đi giao lưu hát dân ca Sán Dìu ở Bắc Giang, Quảng Ninh,i Vĩnh Phúc. Ông bảo ngôn ngữ Sán Dìu ở các địa phương này, từ con chữ đến phiên âm giống nhau, chỉ khác nhau ở âm phát ra, chứ không có sự khác biệt nhiều như ở Thái Nguyên:

“Soọng cô Thái Nguyên giọng đi khác một tí so với giọng bên Vĩnh Phúc. Vĩnh Phúc đi giọng dài hơn 1 chút. Thái Nguyên đi thẳng vào đề của từ ngữ đó luôn. Bên Bắc Giang lại đi ngắn hơn. Giống như dân ca Bắc bộ khác một chút so với Nam bộ, Trung bộ. Cùng hát một bài nhưng giọng khác nhau”.

Người Sán Dìu không có chữ viết riêng nguyên gốc. Bà con đã sáng tạo ra chữ Hán-Nôm Sán Dìu trên cơ sở chữ Hán cổ và phiên âm bằng chữ cái La tinh để dễ đọc. Các thế hệ người Sán Dìu ở Thái Nguyên nói riêng và trong cả nước nói chung luôn có ý thức giữ gìn, phổ biến ngôn ngữ dân tộc mình để thế hệ sau tiếp tục bảo tồn.

Dạy Tiếng Dân Tộc Cho Học Sinh Người Dân Tộc

Điện Biên TV – Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc trong đó khuyến khích thế hệ trẻ trong đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình là một trong những yếu tố góp phần giữ gìn, bảo tồn, củng cố và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc. Tại huyện Tuần Giáo chương trình dạy tiếng Thái, tiếng Mông cho học sinh đã được triển khai tại 15 trường tiểu học và trung học cơ sở.

Lớp học dạy tiếng Thái cho học sinh tại huyện Tuần Giáo.

Năm 2011, trường PTDTBT Tiểu học Ta Ma là một trong những đơn vị trường học đầu tiên triển khai dạy tiếng Mông theo Đề án dạy tiếng Thái, tiếng Mông cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở giai đoạn 2011 – 2023.  Chương trình được triển khai từ lớp 3 đến lớp 5, học sinh đã tương đối thuần tiếng phổ thông nên việc nắm bắt kiến thức tiếng Mông khá thuận lợi.

Tuy nhiên, theo thầy giáo Nguyễn Phúc Đồng, Hiệu trưởng nhà trường, cho biết việc dạy tiếng dân tộc cũng gặp một số khó khăn. ĐÓ là nội dung kiến thức còn hơi nặng với học sinh khối lớp 3 bởi một số phần học sinh hơi khó nhớ và khó hiểu. Do vậy, đề nghị trong thời gian tới Đề án nên giảm tải bớt chương trình cho khối lớp 3.

Chủ động truyền dạy tiếng dân tộc cho học sinh, đội ngũ giáo viên là người dân tộc Thái, dân tộc Mông đã sáng tạo, linh hoạt làm đồ dùng dạy học và sử dụng phù hợp với đặc thù và vùng miền nhằm nâng cao chất lượng truyền thu tiếng dân tộc. Đồng thời lựa chọn lồng ghép giới thiệu văn hóa, phong tục tập quán, các trò chơi dân gian,… của các dân tộc thông qua các chương trình chính khóa, ngoại khóa, các hoạt động tập thể.

Khuyến khích thế hệ trẻ trong đồng bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình là một trong những yếu tố góp phần giữ gìn, bảo tồn, củng cố và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc.

Ông Đỗ Văn Sơn, Trưởng phòng GD&ĐT huyện Tuần Giáo, cho biết: Năm học 2011 – 2012, khi bắt đầu triển khai Đề án dạy tiếng Thái, tiếng Mông cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở giai đoạn 2011 – 2023, huyện Tuần Giáo chỉ có có 2 trường, 4 lớp và 85 học sinh học tiếng Thái; 1 trường, 2 lớp và 48 học sinh học tiếng Mông. Đến nay, sau gần 10 năm triển khai thực hiện Đề án quy mô trường, lớp, học sinh học tiếng dân tộc trên địa bàn huyện Tuần Giáo được mở rộng theo từng năm.

Tiếp tục gìn giữ, phát huy giá trị ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc, huyện Tuần Giáo  đang vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học môn tiếng Việt vào dạy tiếng dân tộc; ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy; xây dựng đội ngũ quản lý viên chức quản lý chỉ đạo dạy tiếng dân tộc có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, hiểu biết tiếng, chữ viết và văn hóa dân tộc… theo tinh thần Nghị quyết số 03/NQ-TW về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc./.

Việt Hòa/DIENBIENTV.VN  

Dân Tộc Là Gì ? Các Khái Niệm Về Dân Tộc?

1. Khái niệm về dân tộc (cách hiểu về dân tộc):

Dân tộc (tộc người, ethnie) là hình thái đặc thù của một tập đoàn người, xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi 3 đặc trưng cơ bản là ngôn ngữ, văn hoá và ý thức tự giác về cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử; ví dụ: dân tộc (hay tộc người) Việt, dân tộc (hay tộc người) Tày, dân tộc (hay tộc người) Khơ Me… Hình thức và trình độ phát triển của tộc người phụ thuộc vào các thể chế xã hội ứng với các phương thức sản xuất.

Dân tộc (nation) – hình thái phát triển cao nhất của tộc người, xuất hiện trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa (hình thái của tộc người trong xã hội nguyên thủy là bộ lạc, trong xã hội nô lệ và xã hội phong kiến là bộ tộc). Dân tộc đặc trưng bởi sự cộng đồng bền vững và chặt chẽ hơn về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, các đặc điểm về văn hóa và ý thức tự giác tộc người.

So với bộ tộc thời phong kiến, dân tộc trong thời kì phát triển tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa có lãnh thổ ổn định, tình trạng cát cứ bị xoá bỏ, có nền kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường quốc gia hình thành thống nhất, các ngữ âm, thổ ngữ bị xoá bỏ, tiếng thủ đô được coi là chuẩn và ngày càng lan rộng ảnh hưởng, sự cách biệt về văn hóa giữa các vùng, miền và giữa các bộ phận của tộc người bị xóa bỏ phần lớn, ý thức về quốc gia được củng cố vững chắc.

Cộng đồng dân tộc thường được hình thành hoặc từ một bộ tộc phát triển lên; hoặc là kết quả của sự thống nhất hai hay nhiều bộ tộc có những đặc điểm chung về lịch sử – văn hóa.

Ngoài những nét giống nhau trên, giữa dân tộc tư bản chủ nghĩa và dân tộc xã hội chủ nghĩa có những nét khác biệt nhau, do đặc điểm của phương thức sản xuất và thể chế xã hội. Ở dân tộc tư bản chủ nghĩa, xã hội phân chia đối kháng giai cấp giữa tư sản và vô sản, Nhà nước là của giai cấp tư sản, bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản. Còn ở dân tộc xã hội chủ nghĩa, xã hội không còn đối kháng giai cấp, quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

3. Dân tộc (quốc gia dân tộc; ví dụ: dân tộc Việt Nam) là cộng đồng chính trị – xã hội, được hình thành do sự tập hợp của nhiều tộc người có trình độ phát triển kinh tế – xã hội khác nhau cùng chung sống trên một lãnh thổ nhất định và được quản lí thống nhất bởi một nhà nước. Kết cấu của cộng đồng quốc gia dân tộc rất đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện lịch sử, hoàn cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước. Một quốc gia dân tộc có tộc người đa số và các tộc người thiểu số. Có tộc người đã đạt đến trình độ dân tộc, song nhiều tộc người ở trình độ bộ tộc. Với cơ cấu tộc người như vậy, quan hệ giữa các tộc người rất đa dạng và phức tạp. Nhà nước phải ban hành chính sách dân tộc để duy trì sự ổn định và phát triển của các tộc người, sự ổn định và phát triển của đất nước. Cũng có trường hợp, một quốc gia chỉ gồm một tộc người (Triều Tiên).

(Nội dung trên được đưa ra bởi: Từ điển luật học xuất bản năm 2010)

Khái niệm dân tộc trong tiếng Việt có thể đề cập đến các nghĩa sau:

+ Dân tộc (cộng đồng): theo nghĩa rộng là cộng đồng người có chung nền văn hóa, nhóm sắc tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc, lịch sử; đôi khi bao gồm nhiều nhóm sắc tộc. Dân tộc trong trường hợp quốc gia dân tộc còn được gọi là quốc dân.

+ Sắc tộc: chỉ nhóm xã hội được phân loại dựa trên nhiều nét chung như di sản văn hóa, nguồn gốc, lịch sử, ngôn ngữ hoặc phương ngữ.

Một số định nghĩa khác về dân tộc:

Dân tộc có thể chỉ một cộng đồng người chia sẻ một ngôn ngữ, văn hóa, sắc tộc, nguồn gốc, hoặc lịch sử. Tuy nhiên, nó cũng có thể chỉ những người có chung lãnh thổ và chính quyền (ví dụ những người trong một quốc gia có chủ quyền) không kể nhóm sắc tộc.

Trong trường hợp gắn liền với một quốc gia dân tộc, dân tộc còn được gọi là quốc dân. “Dân tộc” mang nhiều nghĩa và phạm vi nghĩa của thuật ngữ thay đổi theo thời gian.

Hầu hết mọi dân tộc sống trong một lãnh thổ cụ thể gọi là quốc gia. Một số dân tộc khác lại sống chủ yếu ngoài tổ quốc của mình. Một quốc gia được công nhận là tổ quốc của một dân tộc cụ thể gọi là “nhà nước – dân tộc”. Hầu hết các quốc gia hiện thời thuộc loại này mặc dù vẫn có những tranh chấp một cách thô bạo về tính hợp pháp của chúng. Ở các nước có tranh chấp lãnh thổ giữa các dân tộc thì quyền lợi thuộc về dân tộc nào sống ở đó đầu tiên. Đặc biệt ở những vùng người châu Âu định cư có lịch sử lâu đời, thuật ngữ “dân tộc đầu tiên” dùng cho những nhóm người có chung văn hóa cổ truyền, cùng tìm kiếm sự công nhận chính thức hay quyền tự chủ.

Khái niệm dân tộc, sắc tộc thường có nhiều cách sử dụng không thống nhất trên toàn thế giới:

Thường thì những thuật ngữ như dân tộc, nước, đất nước hay nhà nước được dùng như những từ đồng nghĩa. Ví dụ như: vùng đất chỉ có một chính phủ nắm quyền, hay dân cư trong vùng đó hoặc ngay chính chính phủ. Chúng còn có nghĩa khác là nhà nước do luật định hay nhà nước thực quyền. Trong tiếng Anh các thuật ngữ trên không có nghĩa chính xác mà thường được dùng uyển chuyển trong cách nói viết hàng ngày và cũng có thể giải nghĩa chúng một cách rộng hơn.

Khi xét chặt chẽ hơn thì các thuật ngữ “dân tộc”, “sắc tộc” và “người dân” (chẳng hạn người dân Việt Nam) gọi là nhóm thuộc về con người. “Nước” là một vùng theo địa lý, còn “nhà nước” diễn đạt một thể chế cầm quyền và điều hành một cách hợp pháp. Điều rắc rối là hai tính từ “quốc gia” và “quốc tế” lại dùng cho thuật ngữ nhà nước, chẳng hạn từ “luật quốc tế” dùng trong quan hệ giữa các nhà nước hoặc giữa nhà nước và các cá nhân, các công dân.

Thuật ngữ “dân tộc” thường dùng một cách ẩn dụ để chỉ những nhóm người có chung đặc điểm hay mối quan tâm.

1

Công tác dân tộc

Công tác dân tộc là những hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm tác động và tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Nghị định 05/2011/NĐ-CP

6

Dân tộc thiểu số tại chỗ

Là đồng bào dân tộc thiểu số có nguồn gốc, tổ tiên sinh sống lâu đời trên địa bàn

15/2008/QĐ-UBND

(Hết hiệu lực)

Tỉnh Đắk Lắk

7

bao gồm các đề tài nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đề tài khoa học xã hội và nhân văn. Đề tài có thể độc lập hoặc thuộc dự án, chương trình.

9

Mạng Ủy ban Dân tộc

Là tên viết tắt của hệ thống mạng thông tin của Ủy ban

10

Nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp Bộ của Ủy ban Dân tộc

là những vấn đề khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước về công tác dân tộc cần giải quyết, được xác định, thực hiện theo quy định của Nhà nước về quản lý khoa học và công nghệ và những quy định tại Thông tư này;

11

Trường phổ thông dân tộc bán trú

là trường chuyên biệt, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này bao gồm trường phổ thông dân tộc bán trú cấp tiểu học có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 25% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú cấp trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú.

12

Trường phổ thông dân tộc bán trú

Là trường chuyên biệt, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập nhằm đáp ứng yêu cầu học tập của con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho địa phương, bao gồm: trường phổ thông dân tộc bán trú cấp tiểu học có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 25% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú liên cấp tiểu học và trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, trường phổ thông dân tộc bán trú cấp trung học cơ sở có trên 50% học sinh là người dân tộc thiểu số và có từ 50% trở lên số học sinh ở bán trú, các tỷ lệ này ổn định

Tỉnh Đắk Lắk

13

Vùng dân tộc thiểu số

Vùng dân tộc thiểu sốlà địa bàn có đông các dân tộc thiểu số cùng sinh sống ổn định thành cộng đồng trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nghị định số 05/2011/NĐ-CP

Nguồn: Thư viện pháp luật

3. Đặc điểm các dân tộc ở Việt Nam

Nước ta là quốc gia đa dân tộc và có nhiều đặc điểm quan trọng, nổi bật. Trong đó cần chú ý các đặc điểm sau:

– Các dân tộc sinh sống trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết.

– Các dân tộc ở Việt Nam cư trú xen kẽ nhau.

– Các dân tộc ở Việt Nam trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đều nhau.

– Sự phân bố dân cư không đều; trên vùng núi, biên giới, chủ yếu là các dân tộc thiểu số đang sinh sống.

4. Thế nào là công tác dân tộc? Các nguyên tắc cơ bản của dân tộc?

” Công tác dân tộc ” là những hoạt động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm tác động và tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc thiểu số cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Tại Điều 3 Nghị định 05/2011/NĐ-CP về công tác dân tộc quy định các nguyên tắc cơ bản sau:

– Thực hiện chính sách dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.

– Đảm bảo và thực hiện chính sách phát triển toàn diện, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.

– Đảm bảo việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.

– Các dân tộc có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của nhau, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

5. Các hành vi bị nghiêm cấm trong công tác dân tộc ở Việt Nam là gì?

Nghiêm cấm các hành vi sau đây:

– Mọi hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử, chia rẽ, phá hoại đoàn kết các dân tộc.

– Lợi dụng các vấn đề về dân tộc để tuyên truyền xuyên tạc, chống lại đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

– Lợi dụng việc thực hiện chính sách dân tộc, quản lý nhà nước về công tác dân tộc để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

– Các hành vi khác trái với quy định của Chính phủ.

Trân trọng./.

Các câu hỏi thường gặp