Giáo Trình Học Tiếng Jrai / Top 14 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Theolympiashools.edu.vn

Nội Dung Học Phần Phương Pháp Dạy Học Tiếng Jrai Trong Chương Trình Bồi Dưỡng Giáo Viên Dạy Tiếng Jrai

Nội dung học phần phương pháp dạy học tiếng Jrai trong Chương trình bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai được quy định tại Tiết b Tiểu mục 3 Mục IV Chương trình bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai ban hành kèm theo Thông tư 19/2013/TT-BGDĐT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, theo đó:

Nội dung học phần phương pháp dạy học tiếng Jrai trong Chương trình bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai bao gồm:

– Lí luận và phương pháp dạy học tiếng Jrai

+ Các quan điểm cơ bản của phương pháp dạy học tiếng Jrai theo quan điểm giao tiếp: Những vấn đề cơ bản của lí luận dạy học tiếng dân tộc; các quan điểm cơ bản, phương pháp và kỹ thuật dạy học tiếng Jrai như ngôn ngữ thứ nhất.

+ Các phương pháp, kỹ thuật và phương tiện dạy học tiếng Jrai theo quan điểm giao tiếp: Hệ thống hóa các phương pháp, kỹ thuật dạy học tiếng Jrai, sử dụng phương tiện dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin vào thực tiễn dạy học tiếng Jrai;

+ Các hình thức tổ chức và quản lí dạy học tiếng Jrai theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học: Hệ thống hóa các hình thức tổ chức dạy học và quản lí dạy học để có thể tổ chức và thực hiện các hoạt động giảng dạy tiếng Jrai theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học tiếng mẹ đẻ;

+ Thiết kế giáo án, nhật kí, hồ sơ sư phạm: Yêu cầu, kỹ thuật thiết kế và hình thức trình bày, cách thức chuẩn bị và việc quản lí và kiểm tra hồ sơ giáo án; nhật kí và các hồ sơ sư phạm trong thực tiễn dạy học tiếng Jrai;

+ Thực hành giảng dạy và dự giờ quan sát lớp học tiếng Jrai theo quan điểm giao tiếp: Thực hành dạy học một số kiểu bài trên lớp học; kỹ thuật dự giờ và phân tích, đánh giá các bài học khi dự giờ, thăm lớp; đồng thời củng cố các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết khác của người giáo viên (kỹ năng thâm nhập vào thực tiễn nhà trường, kỹ năng tìm hiểu và quản lí người học).

– Phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Jrai

+ Dạy luyện từ và câu tiếng Jrai: Các kiểu bài tập và phương pháp hỗ trợ quá trình phát triển vốn từ, luyện kỹ năng sử dụng thành thạo từ và câu trong các hoạt động giao tiếp tiếng Jrai phù hợp với việc lĩnh hội và tiếp thu ngôn ngữ thứ nhất của người học.

Chào thân ái và chúc sức khỏe!

2 Giai Đoạn Học Tiếng Jrai Trong Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông

GD&TĐ – Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Jrai vừa được Bộ GD&ĐT công bố xin ý kiến góp ý.

Theo dự thảo, môn Tiếng Jrai là môn học tự chọn thuộc lĩnh vực Giáo dục ngôn ngữ được triển khai dạy học cho học sinh từ bậc A đến bậc B. Ở bậc A (trình độ A1, A2) tương ứng với giai đoạn giáo dục cơ bản, bậc B (trình độ B) tương ứng với giai đoạn giáo dục hướng nghiệp.

Nội dung chính của môn học bao gồm các mạch kiến thức và kĩ năng cơ bản về tiếng Jrai, thiết yếu về tiếng Jrai các nét văn hoá của dân tộc Jrai đáp ứng các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của học sinh ở từng trình độ; được phân chia theo hai giai đoạn: giai đoạn giáo dục cơ bản (bậc A) và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (bậc B).

Ở giai đoạn giáo dục cơ bản (bậc A): Chương trình được thiết kế theo các mạch chính tương ứng với các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Kiến thức được tích hợp trong quá trình dạy học nghe, nói, đọc, viết. Các ngữ liệu được lựa chọn và sắp xếp phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh ở mỗi bậc/trình độ. Mục tiêu của giai đoạn này là giúp học sinh sử dụng tiếng Jrai để giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống nhằm bảo tồn ngôn ngữ mẹ đẻ và văn hóa dân tộc.

Ở giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp (bậc B): Chương trình củng cố và phát triển các kết quả của trình độ bậc A (trình độ A1, A2), giúp học sinh nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ; trang bị một s

Thời lượng thực hiện chương trình ở các trình độ (theo số tiết học): Trình độ A1 (350 tiết); trình độ A2 (420 tiết); trình độ B (315 tiết). Tiểu học học 2tiết/tuần; THCS, THPT học 3 tiết/tuần theo quy định thông tư 32/TT-BGDĐT về CT GDPT mới.

Chương trình môn tiếng Jrai là chương trình khung, được thực hiện thống nhất trong các trường học trên toàn quốc có dạy học tiếng Jrai cho học sinh như là học ngôn ngữ mẹ đẻ.

Căn cứ vào chương trình khung này, có thể sẽ có nhiều nhóm tác giả biên soạn những bộ sách giáo khoa tiếng Jrai khác nhau. Điều này thể hiện chủ trương đa dạng hóa sách giáo khoa mà vẫn đảm bảo được sự thống nhất về chương trình giáo dục của Đảng và Nhà nước.

Mỗi nhóm tác giả sách giáo khoa, tùy vào quan điểm của mình, có quyền chọn thiết kế các bộ sách có cấu trúc khác nhau, chẳng hạn:

Có thể bộ sách gồm nhiều cuốn, mỗi cuốn học trong một năm học; có thể bộ sách gồm số lượng cuốn nhất định cho mỗi trình độ (ví dụ trình độ A1 gồm cuốn 1, cuốn 2, cuốn 3; trình độ A2 gồm cuốn 4, cuốn 5, cuốn 6; trình độ B gồm cuốn 7, cuốn 8).

Dù thiết kế cấu trúc của bộ sách theo cách nào thì các tác giả sách vẫn phải đảm bảo sách giáo khoa bao gồm đủ những nội dung học tập và định hướng về phương pháp dạy học, phương pháp đánh giá đã nêu trong chương trình này.

Dự thảo cũng nêu rõ: Để đạt được mục tiêu của chương trình, cần đảm bảo một số điều kiện cơ bản sau:

Dạy học tiếng Jrai cần dựa trên nguyện vọng, nhu cầu được học tiếng Jrai của người Jrai (theo Nghị định số 82/2010/NĐCP về Qui định việc dạy và học tiếng nói và chữ viết của dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục phổ thông và trung tâm giáo dục thường xuyên).

Bộ GD&ĐT cần có văn bản hướng dẫnSở GD&ĐT các tỉnh một cách cụ thể về việc học sinh học tự chọn môn tiếng Jrai.

Hệ thống ngữ âm và chữ viết của chương trình tiếng Jrai cần thực hiện theo Quyết định số 30/2011/QĐ-UBND ngày 28/10/2011 của UBND tỉnh Gia Lai về việc công bố bộ chữ cái và hệ thống âm, vần tiếng Jrai.

Giáo viên dạy tiếng Jrai đạt trình độ chuẩn đào tạo của cấp học tương ứng, được đào tạo dạy tiếng Jrai tại các trường cao đẳng, đại học sư phạm, khoa sư phạm.

Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học tiếng Jrai theo quy định của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT. Có chế độ chính sách hỗ trợ cho giáo viên tham gia công tác giảng dạy môn tiếng Jrai.

Mục Tiêu Cụ Thể Chương Trình Bồi Dưỡng Giáo Viên Dạy Tiếng Jrai

Nội dung này được Ban biên tập Thư Ký Luật tư vấn như sau:

Mục tiêu cụ thể Chương trình bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai được quy định tại Tiểu mục 2 Mục I Chương trình bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai ban hành kèm theo Thông tư 19/2013/TT-BGDĐT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, theo đó:

Chương trình nhằm bồi dưỡng, trang bị cho học viên:

a) Về kiến thức:

– Nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước về việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số như ngôn ngữ thứ nhất (tiếng mẹ đẻ) nói chung, dân tộc Jrai nói riêng; nhận thức được vai trò và ý nghĩa của việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số ở vùng dân tộc thiểu số;

– Nắm được các kiến thức cơ bản về ngôn ngữ và văn hóa dân tộc Jrai;

– Hiểu rõ xu hướng phát triển của việc dạy học tiếng Jrai; lí luận và phương pháp dạy học tiếng Jrai; các hình thức tổ chức, quản lý dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn tiếng Jrai của người học.

b) Về kỹ năng:

– Các kỹ năng tìm hiểu, học tập ngôn ngữ và văn hóa dân tộc Jrai;

– Các kỹ năng cơ bản trong hoạt động dạy học tiếng Jrai: Kỹ năng tìm hiểu đối tượng và môi trường dạy tiếng Jrai; kỹ năng xây dựng và thực hiện kế hoạch dạy học; kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; kỹ năng sử dụng sáng tạo phương tiện dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của người học và kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn tiếng Jrai của người học;

– Các kỹ năng hỗ trợ cho hoạt động dạy học tiếng Jrai: Kỹ năng giao tiếp, ứng xử; kỹ năng tổ chức, quản lý, quan sát, nhận xét giờ học; kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực tiễn dạy học môn tiếng Jrai phù hợp với đặc thù môn học; kỹ năng tự bồi dưỡng và phát triển nghề nghiệp.

c) Về thái độ:

– Có ý thức nâng cao năng lực nghề nghiệp, trau dồi đạo đức và tác phong sư­ phạm mẫu mực của nhà giáo, lòng say mê và hứng thú trong hoạt động dạy học môn tiếng Jrai;

– Có thái độ khách quan, khoa học trong đánh giá và tự đánh giá quá trình dạy học để nâng cao chất lượng dạy học tiếng Jrai;

– Có ý thức bảo tồn, phát triển tiếng nói, chữ viết, văn hóa của đồng bào dân tộc Jrai, góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.

Chào thân ái và chúc sức khỏe!

Tài Liệu Bồi Dưỡng Giáo Viên Dạy Tiếng Jrai, Bah Nar

27/04/2023 2:11:41 CH – Lượt xem: 2673

NGÔN NGỮ DÂN TỘC VÀ DẠY NGÔN NGỮ DÂN TỘC VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ

Th.s Chử Lương Đào

I. Chủ trương, đường lối,chính sách và pháp luật của Đảng và nhà nước về ngôn ngữ dân tộc và dạy ngôn ngữ dân tộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số

– Xưa nay, ở những quốc gia đa dân tộc, chính quyền bao giờ cũng có chính sách dân tộc, trong đó có chính sách ngôn ngữ dân tộc.

– Trong lịch sử, những kẻ sau khi đã thôn tính quốc gia khác, cùng với bóc lột về kinh tế là âm mưu đồng hóa về chính trị và văn hóa. Ngôn ngữ xâm lược được truyền dạy cho một bộ phận nhỏ người bản địa với mục đích đào tạo công chức, viên chức cho chính quyền và bành trướng văn hóa.

+ Khi giành được độc lập dân tộc năm 938 sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, một mặt cha ông ta quyết tâm khẳng định và bảo vệ nền độc lập ấy, mặt khác lại xây dựng mô hình nhà nước phong kiến giống Trung Hoa. Và chữ Hán là ngôn ngữ hành chính chính thức của các triều đại phong kiến Việt Nam 10 thế kỉ, trừ triều đại Tây Sơn ngắn ngủi 4 năm chủ trương dùng chữ Nôm.

+Thời thuộc Pháp ( 1861-1945) Việt Nam cùng tồn tại 4 loại văn tự là Pháp,Nôm, Hán, Quốc ngữ.

* Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Ngoài người Việt (Kinh) chiếm 85% còn lại 53 dân tộc thiểu số khác. Đông đúc là Tày, Mường, Thái, Khơ me…ít ỏi là Brâu, Rơ măm (Kon Tum) và Chứt( Rục- Quảng Bình) thuộc các ngữ hệ khác nhau( Thái Mèo- Dao, Hán- Tạng…) Người Bah Nar thuộc ngữ hệ Nam Á; người Jrai thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Các dân tộc có chữ viết lâu đời là Thái, Tày, Nùng, Chăm, Khơ me, Dao…

* Chính sách đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số

Nhà nước Việt Nam chủ trương tôn trọng tiếng mẹ đẻ của các dân tộc, đảm bảo sự phát triển tự do và bình đẳng của tất cả các ngôn ngữ dân tộc ở VN. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng 1930 đã đề ra chính sách ” đoàn kết dân tộc trên cơ sở những nguyên tắc bình đẳng và tương trợ lẫn nhau để giành lại độc lập và hạnh phúc chung cho các dân tộc”. Chính cương 1951 ghi rõ: “Các dân tộc sống trên đất nước VN đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ…Cải thiện đời sống cho các dân tộc ít người, giúp đỡ họ tiến bộ về mọi mặt, đảm bảo để họ tham gia chính quyền và dùng tiếng mẹ đẻ trong việc giáo dục ở các địa phương.”

Chính sách ngôn ngữ dân tộc cũng được ghi trong Hiến pháp, từ bản đầu tiên 1946 đến các bản sửa đổi những năm 1960, 1980,1992. ” Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình” ( Điều 5) ” Tòa án nhân dân đảm bảo cho công dân nước CHXHCNVN thuộc các dân tộc quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trước tòa án” ( Điều 133) ( HP 1992)

Luật phổ cập giáo dục tiểu học ban hành ngày 6/8/1991: ” Các dân tộc thiểu số có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình cùng với tiếng Việt để thực hiện giáo dục tiểu học.”

Luật Giáo dục tiểu học ngày 10/12/1998 nói rõ hơn: ” Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói chữ viết của dân tộc mình. Việc dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số sẽ được thực hiện theo qui định của chính phủ.”

Các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính phủ đều nhằm 3 mục đích:

1.Cải tiến và xây dựng chữ viết cho các dân tộc thiểu số.( theo hướng gần gũi với chữ quốc ngữ)

2. Sử dụng tiếng nói và chữ viết dân tộc sao cho thích hợp, hiệu quả.

3. Duy trì bảo vệ ngôn ngữ và văn hóa dân tộc.(1)

Ngôn ngữ dân tộc là một nội dung, là bộ phận cấu thành của văn hóa dân tộc.Duy trì và bảo vệ ngôn ngữ dân tộc là duy trì và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc- một công việc mang tính nhân văn sâu sắc. Vì nếu mất đi sự đa dạng ngôn ngữ( trên thế giới hàng ngày đã có những ngôn ngữ bị biến mất) cũng có nghĩa là mất đi về trí tuệ, văn hóa. Vì vậy bảo vệ môi trường văn hóa là rất quan trọng.Đối với nhân loại, giá trị của mọi ngôn ngữ đều có chức năng và văn hóa như nhau. Kho tàng ngôn ngữ các dân tộc là tài sản quí báu của dân tộc, quốc gia và của toàn nhân loại. Quyết định của Hội đồng chính phủ về chủ trương đối với chữ viết các dân tộc thiểu số ngày 22/2/1980 viết: ” Tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số ở VN vừa là vốn quí của các dân tộc đó, vừa là tài sản văn hóa chung của cả nước.”

Từ kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, trong một nghiên cứu của mình, Trần Chí

Dõi rút ra: vấn đề giáo dục ngôn ngữ ” phải được đặt trong nhu cầu lợi ích của người thụ hưởng nền giáo dục ấy. Chính nhu cầu lợi ích của người thụ hưởng giáo dục song ngữ nhiều khi là yếu tố quyết định chi phối hoạt động giáo dục song ngữ. Trong thực hiện giáo dục song ngữ, khi ngôn ngữ thứ hai là tiếng mẹ đẻ của người thụ hưởng thì lợi ích văn hóa là lợi ích nổi trội nhất. Nếu không nắm bắt đầy đủ lợi ích này để nhận biết đầy đủ tính đa dạng của mục đích thụ hưởng thì việc xây dựng một chương trình giáo dục ngôn ngữ sẽ ít khả năng thu được thành công.” ( 2)

* Ở Gia Lai: Thái độ, công việc của người thầy giáo Jrai đầu tiên Nay Der với chữ viết dân tộc, tiếng Việt, tiếng Pháp.

Năm 1923, Nay Der tốt nghiệp sư phạm Qui Nhơn và trở thành thầy giáo đầu tiên của người Jrai. Ông là người soạn ra bộ chữ cái Jrai đầu tiên bằng mẫu tự latin để ghi lại tiếng nói của dân tộc mình.( chỉnh sửa 1983, 2011) Lớp học đầu tiên ở Kon Tum có 40 học sinh.( Trong đó 12 em là người Jrai, Bah Nar, Xơ Đăng, Rơ Ngao, 28 học sinh người Việt) Năm học 1940-1941 công sứ Pháp báo cho đốc học Kon Tum là Ăng Toan biết là cần đưa tiếng Pháp vào dạy ở bậc tiểu học. Nay Der phản đối và nói: ” Học sinh trong trường tuy là con em các sắc tộc thiểu số nhưng đều là người An Nam cả. Vì vậy việc dạy chữ quốc ngữ ghi tiếng mẹ đẻ là cần thiết bên cạnh việc dạy chữ dân tộc thiểu số. Còn dạy chữ Pháp ở bậc tiểu học là không cần. Nếu ông Thống sứ và ông Đốc học lấy uy quyền mà bắt buộc thì chỉ dạy một tuần vài tiết có tính chất giới thiệu. Học sinh sẽ không phải kiểm tra, sát hạch gì.” ( 1)

II. Vai trò, ý nghĩa của việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển tư duy và nhân cách của người học.

Việc dạy học tiếng dân tộc thiểu số có vai trò, ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, phát triển tư duy và nhân cách của học sinh bởi các lí do sau đây:

– Cùng với phong tục tập quán, với kho tàng Folclore…ngôn ngữ(*) dân tộc là một bộ phận quan trọng của văn hóa dân tộc.( ” văn hóa” hiểu theo nghĩa truyền thống và hiện đại) Nó là công cụ để tư duy và giao tiếp của các cá thể trong cộng đồng một tộc người; là nơi lưu giữ và phổ biến kinh nghiệm sống, tri thức, nghệ thuật…của dân tộc.( Ví dụ: so sánh tục ngữ, thành ngữ của người Việt với của người Jrai, Bah Nar) Có thể nói mà không sợ quá lời rằng: Nếu không còn ngôn ngữ thì cũng sẽ không còn văn hóa dân tộc.

-Như trên đã nói, ngôn ngữ là công cụ của tư duy. Nếu không có ngôn ngữ thì không thể tiến hành cảm nhận, nhận thức thế giới ( nội tâm và bên ngoài) và giao tiếp giữa người với người. Thực tế cho thấy vốn từ người nào càng phong phú thì năng lực tư duy càng cao và ngược lại. Đây là qui luật không có ngoại lệ. Vì vậy dạy học tiếng dân tộc cho học sinh ở mức độ lí tưởng nhất là giúp các em phát triển tư duy,diễn đạt đúng tiến tới hay, sinh động, phong phú những suy nghĩ của mình bằng tiếng mẹ đẻ.

– Nhân cách con người do nhiều yếu tố tạo nên. Giáo dục, phát triển nhân cách của học sinh qua việc dạy học tiếng dân tộc cần tiến hành các công việc:

+ Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, trân trọng và tự hào về tiếng mẹ đẻ của mình.

+ Có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng nói dân tộc.

+ Có nhu cầu phát huy, quảng bá tiếng nói dân tộc bằng cách sáng tạo từ mới, cách nói mới, giới thiệu cái hay cái đẹp của tiếng nói với bạn bè, và những người thuộc dân tộc khác…

+ Tránh hai xu hướng: tự ti, mặc cảm ( chỉ thích nói tiếng Việt) hoặc quá lạm dụng tiếng mẹ đẻ, hạn chế tới quá trình tiếp thu kiến thức ở những lớp trên( Vì ” liều lượng” tiếng dân tộc sẽ theo hình chóp nón từ lớp 1 trở lên)

Có thể khẳng định: Sẽ là một nhân cách xộc xệch, méo mó nếu người nào đấy coi thường hoặc không thông hiểu tiếng nói mẹ đẻ của mình.

Chú thích: (*) Trong bài này ” ngôn ngữ” có lúc được hiểu là ” tiếng nói”, có lúc hiểu là ” chữ viết”.

Chử Anh Đào- Người thầy giáo Jrai đầu tiên. GD.1986

Nguyễn Thiện Giáp- Chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam qua các thời kì lịch sử- Nguồn: Intenet.

Yêu Cầu Về Kiến Thức Và Kỹ Năng Dạy Luyện Từ Và Câu Tiếng Jrai Trong Bồi Dưỡng Giáo Viên Dạy Tiếng Jrai

Yêu cầu về kiến thức và kỹ năng dạy luyện từ và câu tiếng Jrai trong bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai được quy định như thế nào? Xin chào Ban biên tập Thư Ký Luật, tôi là Ngọc Châu hiện đang sống và làm việc tại Bến Tre. Tôi đang tìm hiểu về hoạt động giáo dục của đồng bào dân tộc thiểu số. Tôi có nghe về Chương trình bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai. Vậy Ban biên tập cho tôi hỏi yêu cầu về kiến thức và kỹ năng dạy luyện từ và câu tiếng Jrai trong bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai được quy định như thế nào? Vấn đề này được quy định cụ thể tại văn bản nào? Mong Ban biên tập Thư Ký Luật giải đáp giúp tôi. Chân thành cảm ơn.

Yêu cầu về kiến thức và kỹ năng dạy luyện từ và câu tiếng Jrai trong bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai được quy định tại Mục 5 Chương trình bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng Jrai ban hành kèm theo Thông tư 19/2013/TT-BGDĐT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, theo đó:

Kiến thức:

– Hiểu yêu cầu, nội dung dạy học luyện từ và câu tiếng Jrai; các bước tiến hành, cách thức tổ chức cho người học luyện tập dùng từ và câu tiếng Jrai trong hoạt động giao tiếp;

– Hiểu mục đích, cấu tạo, cách thức tiến hành các kiểu bài tập luyện từ và câu tiếng Jrai trong giao tiếp của người học.

Kỹ năng:

– Thiết kế được các bài tập luyện từ và câu trong giao tiếp phù hợp với trình độ người học, đáp ứng được yêu cầu phát triển vốn từ và câu cho người học;

– Biết thiết kế và tổ chức giờ học luyện từ và câu theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học, tạo hứng thú cho người học;

– Sử dụng kết quả đánh giá điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học luyện từ và câu phù hợp với đối tượng người học, phù hợp với thực

Chào thân ái và chúc sức khỏe!