Dạy Tiếng Anh Cho Học Sinh Lớp Một / Top 6 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Theolympiashools.edu.vn

Một Vài Kinh Nghiệm Dạy Từ Vựng Tiếng Anh Cho Học Sinh Lớp 9

ĐỀ TÀI: MỘT VÀI KINH NGHIỆM DẠY TỪ VỰNG TIẾNG ANH CHO HỌC SINH LỚP 9 I.Đặt vấn đề 1. Cơ sở lý luận: Tiếng Anh là một ngôn ngữ thông dụng trên quốc tế và nó đã được đưa vào chương trình giảng dạy, trở thành một trong những bộ môn chính khoá ở các bậc học phổ thông. Để dạy tốt môn Tiếng Anh, mỗi một giáo viên đứng lớp luôn phải thực hiện tốt công tác bồi dưỡng và tự bồi dưỡng thường xuyên, nghiên cứu, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, khoa học và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục hiện nay đang tập trung hướng vào việc phát triển tính năng động, sáng tạo, tích cực của học sinh trong hoạt động học tập nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề cho học sinh. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) ở trường THCS là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện năng lực giao tiếp cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể. Mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ là giao tiếp. Để giao tiếp tốt trước hết đòi hỏi ở học sinh có vốn từ vựng nhất định, vốn từ vựng càng nhiều giúp học sinh càng hiểu ngôn ngữ giao tiếp nhanh chống và có hiệu quả. Với mục đích dạy tốt môn Tiếng Anh trong thời gian đã hơn10 năm đứng lớp và giúp cho học sinh khắc phục được những khó khăn trong việc học từ mới và học từ mới có hiệu quả. Tôi đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu viết về phương pháp cộng với những trải nghiệm trong quá trình giảng dạy. Tôi đã rút ra được một vài kinh nghiệm trong việc gây hứng thú cho học sinh học Tiếng Anh qua các giờ dạy từ vựng lớp 9. Đây là kinh nghiệm mà tôi tâm đắc nhất và tôi đã mạnh dạn chọn nó để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm cho mình. Khi thực hiện đề tài này tụi đó sử dụng cỏc phương phỏp sau: 1/ Phương pháp nghiên cứu tài liệu. 2/ Phương pháp thực nghiệm 3/ Phương pháp tổng kết qua kinh nghiệm công tác và giảng dạy. Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu đề tài này tôi đã gặp phải một số khó khăn và thuận lợi sau: 2. Cơ sở thực tiễn: Điều kiện trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học bộ môn Tiếng Anh khá đầy đủ như: đèn chiếu, đài catset, băng hình, tranh ảnh và thậm chí những năm gần đây trường chúng tôi đã thực hiện việc dạy học bằng giáo án điện tử. Vì thế chất lượng dạy học bộ môn ngày càng được nâng cao rõ rệt. Bản thân luôn được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, của các anh chị em đồng nghiêp và đặc biệt là các anh chị em trong tổ chuyên môn. Phần lớn học sinh rất hứng thú và và chỳ ý say mờ trong học tập Bờn cạnh đú một số cá biệt học sinh vẫn còn thiếu kiên nhẫn trong học tập, còn chây lười, ỷ lại và mang tính thụ động. Đại đa số học sinh là con em nông dân nên điều kiện tiếp xúc với phương tiện thông tin còn hạn chế. * Để thực hiện phương pháp thực nghiệm tôi đã tiến hành khảo sát vốn từ vựng bộ môn Tiếng Anh đầu năm đối với lớp 9 như sau: - Số học sinh nói đúng: 50% - Số học sinh viết đúng: 35% Học sinh đạt yêu cầu về nghe, nói, đọc, viết: 50% - Học sinh hứng thú học từ: 45% - Một số học sinh còn rụt rè trong giao tiếp, vốn từ vựng và cách nhớ từ còn hạn chế. Một số học sinh chỉ nói theo chứ không viết đúng, học còn trầm, chậm. Trước tình hình đó tôi đã tìm giải pháp tốt nhất để giúp các em chủ động nhớ từ, vận dụng từ và hứng thú học từ qua giờ dạy có từ vựng. II. CÁC BIỆN PHÁP TIẾN HÀNH: 1.Các bước để giới thiệu từ mới: Bước 1: Thâm nhập nắm chắc chương trình môn Tiếng Anh lớp 9, nghiên cưú kỹ nội dung từng bài để có kế hoạch làm đồ dùng cho giờ dạy sôi động, hấp dẫn và lôi cuốn. Bước 2: Phối hợp với học sinh và duy trì ngôn ngữ giao tiếp với học sinh bằng cách đặt câu hỏi học sinh trả lời. Bước 3: Lựa chọn và phân loại từ: từ chủ động hay từ bị động. Bước 4: Sử dụng các thủ thuật linh hoạt để giới thiệu nghĩa của từ. Bước 5: Kiểm tra việc hiểu và nắm nghĩa của từ. Bước 6: Luyện tập từ của học sinh. Bước 7: Kiểm tra mức độ hiểu biết và nắm được từ của một số học sinh yếu nếu cần thiết. 2. Các phương pháp để giới thiệu nghĩa của từ vựng: Realia, picture, mime, translation, explanation, synonym, antonym,... a. Lựa chọn từ để dạy: Thông thường trong một bài học sẽ luôn luôn có từ mới. Song không phải từ mới nào cũng cần đưa vào dạy như nhau. Lựa chọn từ để dạy tôi cần xem xét từ chủ động hay bị động? Trước khi dạy tôi phải đọc bài và nghiên cứu kỷ để tìm từ chủ động và thụ động. - Từ bị động(passive/ receptive vocabulary) là những từ học sinh chỉ hiểu và nhận biết được khi nghe và đọc, ít sử dụng và kém nhu cầu giao tiếp. Tôi xác định sẽ dạy từ nào như một từ bị động và từ nào như một từ chủ động. Với từ bị động tôi có thể khuyến khích học sinh tự tìm hiểu nghĩa của từ (ví dụ: tra từ điển, hoặc đoán từ qua ngữ cảnh). Eg: Dạy bài 5 (lesson 1) tôi đã chọn các từ chủ động: a crier , a viewer, channel, remote control, Từ để đoán: interactive, convenient, widely, wonderful Từ được chia làm 2 loại: Từ nội dung(content words) và từ chức năng(function words). Từ nội dung là những từ biểu thị người, vật, hiện tượng, tính chất,.... nó có nghĩa khi từ được đứng độc lập. Thường là các loại từ như danh từ, tính từ, động từ. Ex: a teacher, a poet, baggy, intermediate, (to) do Từ chức năng là những từ có ít nghĩa khi nó đứng một mình, nó biểu thị một mối quan hệ ngữ pháp ngay trong một câu hay giữa các câu, nên ta gọi là nghĩa về ngữ pháp(grammatical meaning). Các loại từ như liên từ, giới từ, mạo từ.... thường được gọi là chức năng. Ngoài ra từ còn có nghĩa đen (denotation) và nghĩa bóng (connotation). Với sự đa dạng của từ, tôi đã đầu tư trong việc lựa chọn từ thích hợp, có vai trò chủ động để hiểu được nội dung chính của bài học. Vì thế trong mỗi tiết dạy tôi chỉ cho các em 5-8 từ chủ động, vì thực tế có bài có đến 10-15-20 từ mới, nếu đưa ra quá nhiều học sinh sẽ không nhớ nỗi. b. Các hình thức để giới thiệu từ vựng. Có nhiều phương pháp giới thiệu từ vựng nhưng giới thiệu bằng cách nào cho phù hợp với từ, với đối tượng để học sinh dễ nhận biết và phát huy được tính tích cực ,tìm tòi, đoán nghĩa của học sinh. - Dùng tranh ảnh hay đồ vật cụ thể (visual realia). Khi dạy những từ cụ thể tôi đã mang những vật thực để giới thiệu. Eg: Dạy bài 5 có những từ cầm đồ vật thật như: remote control, magazine. Dạy bài 7 có những từ cầm đồ vật thật như: water bill, crack,...và các bài khác như: comic, bill, bulb, flashlight, doll,.... - Khi dạy những từ cần hình ảnh , tôi đã dùng tranh để giới thiệu. Dạy bài 2 có những từ dùng tranh như: a plainsuit, a plaid skirt, a striped shirt, faded jeans, baggy pants,... Dạy bài 6 có những từ dùng tranh như: garbage dump, air pollution, dynamite fishing, deforestation spraying pesticides,... Dạy bài 9 có những từ dùng tranh như: snow storm, earthquake, typhoon, tornadoes, thunder storm,. .. Có những hình ảnh đơn giản tôi có thể vẽ hình que lên bảng. Eg: bamboo forest, river bank, faucet, funnel shaped, brucket, ladder, leak,..... Bằng hình thức này tôi đã tạo cho học sinh những tình huống sinh động nhưng dễ hiểu. Học sinh thích thú và khá sôi nỗi. Nhiều em còn tranh nhau để đoán từ, thậm chí có những em yếu như em , Thuý, Hoỏ, H. Dũng, ... và thường tôi gọi những em yếu để cho các em có cơ hội và mạnh dạn hơn trong học tập. - Dùng cử chỉ, điệu bộ để giới thiệu(mime, body, gestures and actions). Eg: (to)pray, (to)lay out, (to)swap , (to)hug, (to) turn up, (to) throw, (to) decorate,.... Sử dụng hình thức này tôi đã thể hiện rõ ràng, tự nhiên giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhận biết và rất hứng thú học. ã Sử dụng từ đồng nghĩa(synonym) và từ trái nghĩa(antonym) Một phần giúp học sinh liên tưởng đến những từ đã học, vừa nắm được nghĩa của từ mới. Eg: "enormous" ạ "great/ huge", (to) live apart ạ live together, (to) reduce ạ (to) increase, (to) disappear ạ (to) appear,... (to) capture = (to) catch, extensive = large/ wide (adj), (to) occur = happen, remote =distant (adj),the shore = the beach ã Sử dụng tình huống(situation) hay giảng giải (explanation). Eg: (to) keep in touch. Although my friend lives in HCM City, I often hear about her health, study. We...(unit 1) (to) correspond (Unit 1). They usually write letter to each chúng tôi usually... - a poet (unit 2) - To Huu is a famous.... - banyan tree: Uncle Ho planted a............ in Tan Trao. - an examiner : In an exam, teachers are called ....... - ethnic minorities (unit2) Thai, Muong, Dao,... are... - a blanket. It makes us warm at night. Ngoài ra tôi còn sử dụng tình huống giảng giải, dạy từ trong ngữ cảnh, giải thích từ bằng những Tiếng Anh đơn giản, nhiều em rất tích cực trong việc đoán từ. Đối với những từ trừu tượng tôi dùng phương pháp dịch thuật như khi dạy bài 4 (B). Eg: shrine, mosque, interactive, a dripping faucet, freedom choice, (to) warn, edition,..... Tómlại: Các hình thức giới thiệu từ đa dạng nhưng tuỳ vào tình hình thực tế đối tượng học sinh và vào từng từ cụ thể mà giáo viên lựa chọn hình thức phù hợp để đạt được hiệu quả cao. 3. Các bước trình bày một từ mới: - Âm thanh và ngữ nghĩa: Kỹ năng nghe hiểu phải đươc đặt lên trước kỹ năng viết. Vì thế trước hết tôi đã gợi ý để học sinh nêu ra được từ mới. Học sinh nghe tôi đọc cách phát âm của từ (2-3 lần). Sau đó tôi yêu cầu học sinh nhắc lại đồng thanh, cá nhân. Tôi ghi từ lên bảng (những từ có 2 âm tiết tôi đánh rõ trọng âm). - Khi học sinh ghi được từ vào vỡ tôi đã dùng nhiều biện pháp để kiểm tra từ. Các hình thức trò chơi theo nhóm đã thực sự tạo hứng thú học tập cho học sinh. + Rub out and remember: Hình thức này đã thực sự giúp học sinh nhớ từ ngay tại lớp. + Slap the BB: Hình thức này đã giúp học sinh nhận ra từ vựng qua nghe hiểu và kiểm tra việc hiểu nghĩa từ của học sinh. Học sinh làm việ theo nhóm. Nhóm nào cũng muốn chiến thắng vì vậy các em hoạt động rất nhanh nhẹn và sôi nỗi. + What and Where: Tôi đã gợi ý để học sinh đưa ra được từ vựng rồi viết chúng vào các vòng tròn lên bảng, lần lượt (đọc-xoá-đọc) và tôi yêu cầu học sinh phải nhớ được từ và vị trí của nó để lên viết lại. Thoạt đầu một số em yếu còn nhút nhát nhưng dần về sau nhiều em đã rất mạnh dạn và muốn lên bảng để viết. Hình thức này đã giúp học sinh ghi nhớ và ôn luyện từ bằng cách viết từ + Matching words: Tôi yêu cầu học sinh nối nghĩa tiếng Việt với tiếng Anh hoặc với tranh. Phương pháp này tiết kiệm được thời gian và học sinh rất hào hứng làm việc, 90% học sinh xung phong lên bảng để nối, kể cả những em rất yếu. Eg: Unit 2 - lesson 4 (on the poster): go met have told be gone buy had give been learn bought teach given know taught tell known meet learnt ... ... + Guessing pictures (đoán tranh): Phương pháp này đã giúp nhiều học sinh cúng nói và luyện từ mới một cách có ý nghĩa. + Bingo: Bằng cách này tôi đã giúp học sinh luyện tập được kỹ năng nghe và nối âm thanh nghe được với từ đúng. Học sinh thực hành rất sôi nỗi. Thậm chí học sinh còn đề nghị giáo viên cho làm lại để quyết giành chiến thắng. + Finding friends (tìm bạn): Dưới hình thức này tôi đã giúp các em kết hợp được cách dùng của từ với một cụm từ khác. Giúp các em phân biệt được nghĩa của từ trong những tình huống khác nhau. Eg: Khi dạy unit 2 để nhớ tên các loại áo quần tôi đã yêu cầu các em đánh dấu (V) vào những ô theo hàng ngang . Clothes Jeans Colorful T- Shirt a plaid skirt school uniform plain suit blue shorts Casual V favorite special occasions V Bằng cách này học sinh đã dùng đúng từ, tránh được sự kết hợp sai , học sinh đã áp dụng đúng trên 80%. + Noughts and croses: Tôi đã dùng hình thức này để kiểm tra việc vận dụng từ mới trong câu và thực sự gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt hiệu quả cao về học tập từ. + Jumbled words: Bằng cách kiểm tra này tôi đã giúp học sinh luyện tập viết đúng chính tả của từ. Học sinh phải sắp xếp được các chữ cái lộn xộn thành một từ có nghĩa. Ngoài những hình thức kiểm tra từ trên tôi còn tổ chức cho các em nhiều trò chơi khác nhau để rèn luyện kỹ năng viết và sử dụng từ, vừa tăng thêm sự hứng thú trong học tập cho các em. Eg: Trong các bài ôn tập tôi thường kiểm tra từ bằng trò chơi(lucky number). Mỗi học sinh tự chọn số của mình theo nhóm và đặt được câu với từ hoặc giải thích nghĩa từ theo yêu cầu của giáo viên. Hoặc tôi cho học sinh thi nhau viết từ bằng các cách sau: ã Viết từ bắt đầu bằng chữ cái cuối (theo nhóm) ã Viết tiếp chữ cái để tạo thành một từ có nghĩa, ai kết thúc được sớm là người đó thắng cuộc. Hoặc tôi vận dụng trò chơi(wordsquare, network, wordstorming, ...) Eg: Unit 12 - lesson 1: "network" activities of entertainment Học sinh làm việc theo nhóm watching TV listening to music Với các hình thức này đã thực sự đem đến hiệu quả cao cho các em trong việc nhớ từ và vận dụng từ. * Trong quá trình hướng dẫn học sinh học từ, nhớ từ và vận dụng từ tôi luôn theo dõi thái độ và kết quả của học sinh để có sự điều chỉnh bổ sung cho việc nâng cao giờ dạy từ vựng. Tôi thường đưa bài tập luyện từ từ dễ đến khó để nâng cao dần trình độ và kỹ năng sử dụng từ cho các em(đặc biệt là đối tượng khá, giỏi). Tôi thường cho các em bài tập điền từ vào chổ trống sau khi đã kiểm tra từ hoặc để rèn luyện thêm kỹ năng nghe tôi đã cho các em bài tập(ordering) sắp xếp từ theo đúng trật tự. Một số học sinh khá, giỏi đã thể hiện năng lực, trí tuệ của mình và các em làm việc rất tích cực, chủ động. III.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Sau một thời gian vận dụng các kỷ thuật dạy từ vào bài học: Khảo sát về kỷ năng vận dụng từ, kết quả như sau: - Nói đúng: 85% (hơn 35% so với trước) - Viết đúng 75% (hơn 30% so với trước) - Học sinh đạt yêu cầu về nghe, nói, đọc, viết: 90% (hơn 40% só với trước). - Học sinh hứng thú học từ 100% (hơn 55% so với trước). Qua thể hiện đề tài đã làm , tôi nghĩ rằng giáo viên cần đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo trong việc sử dụng phương pháp và hình thức dạy từ một cách linh hoạt mới nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tiếng Anh trong nhà trường THCS. IV. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Từ những điều rút ra từ thực tế, phải nói rằng việc dạy và học từ vựng trong Tiếng Anh là bước đi rất quan trọng nối liền giữa việc học từ vựng ban đầu đến cái đích phát triển các kỹ năng, kỹ xảo. 1.Muốn nâng cao hiệu quả giờ dạy từ, gây hứng thú học bộ môn Tiếng Anh cho học sinh lớp 9 nói riêng, học sinh THCS nói chung giáo viên cần nắm chắc chương trình, nghiên cứu kỹ bài dạy: Lựa chọn từ thích hợp, chủ động để học sinh hiểu được nội dung bài hay phục vụ mục đích giao tiếp. 2. Căn cứ vào từ loại, nghĩa của từ, đối tượng học sinh để chọn phương pháp trình bày hợp lý, dễ hiểu và có hiệu quả. 3. Sử dụng hình thức kiểm tra, luyện tập từ phù hợp với bài học, đối tượng và thời gian. Giáo viên cần sáng tạo trong việc ra các dạng bài tập, luyện tập phong phú để huy động được toàn bộ học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà chu đáo, hướng dẫn học sinh biết tự học(tự tra từ, đoán từ ở nhà). 4. Quá trình giảng dạy giáo viên cần có thái độ nhẹ nhàng, động viên khuyến khích học sinh học tập. 5. Hoạt động của thầy và trò trong từng tiết học cần phải theo hướng đổi mới: Thầy tổ chức, hướng dẫn học sinh nắm bắt những kiến thức mới, trò lắng nghe để nhận nhiệm vụ, thực hiện hoạt động một cách tích cực và sáng tạo. Giáo viên cần thường xuyên vận dụng các kỷ thuật dạy học vào tiết dạy để giúp học sinh có cơ hội luyện tập từ nhiều hơn. Giáo viên cũng cần rút kinh nghiệm sau mỗi buổi dạy để thực hiện giờ lên lớp sáng tạo hơn, giúp học sinh học tốt hơn. V.NHỮNG ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ: Tụi kớnh đề nghị ngành GD- Đồng Hới nờn tổ chức thường xuyờn cỏc buổi chuyờn đề cụm để giỏo viờn cú cơ hội trau dồi và học hỏi thờm nhiều kinh nghiệm từ đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Đồng Hới, ngày 03 tháng 3 năm 2011 Người trình bày Võ Thị Hồng Lĩnh HĐKH TRƯỜNG THCS BẮC NGHĨA HĐKH NGÀNH GD- ĐT ĐỒNG HỚI

Một Số Kinh Nghiệm Dạy Đọc Học Sinh Thcs Môn Tiếng Anh

PHẦN I

PHẦN MỞ ĐẦU

TÊN ĐỀ TÀI

” Một số phương pháp dạy đọc cho học sinh THCS”.

I.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :

Nâng cao hiệu quả công tác dạy học môn tiếng Anh ở các trường THCS chính là nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Anh ngữ không những trực tiếp phục vụ nhiệm vụ học tập ở bậc THCS và các lớp tiếp theo mà còn là cơ sở để giúp các em có điều kiện tích cực chủ động trong giao tiếp với môi trường quốc tế hoá rộng mở hiện nay. Những năm qua, cùng với các trường THCS trên địa bàn huyện, việc tổ chức dạy học môn tiếng Anh ở trường THCS Kim Sơn đã thường xuyên nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Phòng giáo dục huyện Đông Triều, Ban giám hiệu, cùng với sự cố gắng nỗ lực của tập thể thầy, trò nhà trường nên chất lượng môn học các lớp luôn đạt chỉ tiêu được giao với tỉ lệ khá giỏi năm sau cao hơn năm trước và từng bước vững chắc… Tuy nhiên, do đặc thù của môn học và những khó khăn do chủ quan và khách quan nên khả năng truyền thụ và tiếp thu của thầy và trò còn gặp nhiều khó khăn. Là một giáo viên dạy tiếng Anh trong trường THCS, qua nhiều năm giảng dạy và nhiều tình huống gặp phải trên lớp khi rèn luyện kĩ năng cho học sinh, đặc biệt là kĩ năng đọc hiểu, tôi nhận thấy rằng phần lớn học sinh đã biết đọc, biết cách đọc để tìm ra mục đích, mục tiêu để tìm ra nội dung chính. Nhưng không ít học sinh vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong tư duy đọc hiểu kết hợp với tư duy lôgic để tìm ra ý chính, nội dung cần thiết. Với việc tiếp thu chương trình mới – nội dung sách giáo khoa mới hiện nay thì việc học tập đó chưa thực sự đạt kết quả tốt. Để bắt kịp và có thể thu được kết quả cao với phương pháp dạy và học hiện nay, yêu cầu mỗi học sinh phải tự rèn cho mình tính tư duy độc lập, chủ động sáng tạo trong học tập. Xuất phát từ những suy nghĩ trên, bản thân tôi đã cố gắng tìm tòi kết hợp với những kinh nghiệm qua bài giảng, tình huống thực tiễn để làm thế nào nâng cao chất lượng bài dạy, gây được hứng thú đối với học sinh, giúp học sinh dần dần rèn được kĩ năng cần thiết. I. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

Qua thực tế dạy học theo phương pháp mới- lấy học sinh làm trung tâm. Tôi nhận thấy những yêu cầu đổi mới, những định hướng và phương pháp đổi mới mà tài liệu bồi dưỡng giáo viên đề cập tới là hoàn toàn có thể thực hiện dược đối với cả giáo viên và học sinh. Để có được một tiết lên lớp đúng theo tinh thần đổi mới, đòi hỏi sự chu đáo của cả thầy và trò, đặc biệt là sự gia công của thầy. Hiện nay hầu như trang thiết bị phục vụ cho mỗi môn học đã dược cung cấp và mua sắm như đài, băng, giáo vụ trực quan ( tranh ), sách tham khảo, sách bài tập, sách hướng dẫn của giáo viên và đặc biệt khi xã hội ngày càng phát triển, sự giao lưu quốc tế trên mọi lĩnh vực của cuộc sống ngày càng lớn mạnh, nó giúp cho các em thấy được sự cần thiết và tầm quan trọng của môn học, qua đó giúp cho các em phát triển được sự say mê yêu thích của bản thân đối với môn học, ngoài sự gợi ý dẫn dắt khéo léo gây hứng thú của thầy.

Trước những thuận lợi và khó khăn trên, tôi nghĩ cần phải nghiêm túc trong việc học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường, đọc và tham khảo nhiều loại sách để tìm ra những thủ thuật phù hợp áp dụng cho từng bài dạy để tạo ra được hứng thú say mê của học sinh đối với môn học này và hơn thế nữa là ngày càng đáp ứng dược sự phát triển cao của giáo dục là đổi mới phương pháp dạy học. Phát huy tính tích cực của học sinh.

– Giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm.

Như chúng ta đã biết, để học tốt ngoại ngữ ta cần phải hội tụ đầy đủ 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Vì vậy trong quá trình dạy học người giáo viên phải giúp học sinh phát triển các kĩ năng này. Thông qua việc giảng dạy, tôi thấy học sinh thường chưa phát huy được kĩ năng đọc đặc biệt là kĩ năng đọc hiểu.

I. 3. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM:

– Năm học 2008- 2009.

– Lớp 9A, 9B, 6A – Trường THCS Kim Sơn.

I. 4. ĐÓNG GÓP VỀ MẶT LÍ LUẬN, VỀ THỰC TIỄN: I. 4.1. Về mặt lí luận: Mục đích của giáo dục XHCN ở nước ta là phát triển toàn diện và hài hoà với con người, như vậy việc đặt cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện nhân cách con người. Trong trường THCS việc giáo dục đạo đức và trang bị kiến thức khoa học cho học sinh là vấn đề cấp thiết và vô cùng quan trọng, nó giúp học sinh có đủ điều kiện phát triển toàn diện cả về nhân cách và tri thức để trở thành một công dân có ích cho xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Vì vậy, nâng cao chất lượng giáo dục ngày càng được quan tâm và chú trọng. Để chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao đòi hỏi phải có sự đổi mới nội dung và phương pháp dạy học bởi vai trò của người thầy là chủ đạo trong dạy học. Người thầy là người thiết kế tổ chức hoạt động, trò là người thực hiện các hoạt động. Do đó giáo viên phải sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học bộ môn nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo. Một trong các phương pháp đó là phương pháp dạy học tích cực, hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoá nhận thức của người học nghĩa là tập trung và phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là đặt người dạy vào vị trí trọng tâm của quá trình dạy học. I. 4.2. Về mặt thực tế:

Đa số học sinh của trường THCS Kim Sơn thuộc vùng nông thôn. Vì vậy, điều kiện về vật chất cũng như thời gian dành cho các em còn có phần hạn chế. Tuy nhiên trình độ nhận thức ở các lớp khác nhau, và ngay cả trong cùng một lớp việc nắm bắt kiến thức của các em cũng có phần chênh lệch. Nhưng nhìn chung các em đã tự vượt khó, chịu khó học tập. Bên cạnh đó vẫn còn một số em lười học, không tự khắc phục vượt khó, một số gia đình có hoàn cảnh khó khăn không quan tâm đến việc học tập của con em mình do đó kết quả dạy học nói chung là chưa được cải thiện nhiều so với một số trường trên địa bàn huyện.

PHẦN II: NỘI DUNG II.1. TỔNG QUAN

Chương trình tiếng Anh ở trường THCS luôn được xây dựng trên quan điểm xuất phát từ mục tiêu đào tạo của cấp học, đảm bảo tính khoa học và sư phạm, thể hiện tính kế thừa những mặt ưu của chương trình cải cách, thể hiện được tính hiện đại, cập nhật gắn liền với nền văn hoá của một số nước trên thế giới và Việt nam.

II. 2. NỘI DUNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

II.2.1. Đối tượng nghiên cứu:

– Học sinh THCS.

– Giáo viên giảng dạy tiếng Anh THCS.

II.2.2. Cơ sở lý luận:

Căn cứ vào tình hình thực tế học sinh, chất lượng tổng thể ở mức trung bình. Nhưng các kỹ năng riêng và đặc biệt là kỹ năng đọc hiểu thì chưa cao. Học sinh mới chỉ dừng lại ở việc bắt chước làm theo hay tìm ý trong bài nhưng việc tổng hợp kiến thức hay những câu hỏi mang tính tổng hợp, khái quát thì học sinh chưa biết cách làm, hoặc làm nhưng chất lượng chưa cao, chưa chủ động tư duy, kết hợp kiến thức để đưa ra câu trả lời tốt nhất. Với sự thay đổi lớn về phương pháp dạy học hiện nay đòi hỏi học sinh phải là trung tâm. Học sinh phải tận dụng được mọi tình huống để phát huy hết tính tích cực và khả năng vận dụng ngôn ngữ của mình để tư duy độc lập sáng tạo trong học tập, chủ động trong sử dụng ngôn ngữ. Muốn có được như vậy thì vai trò của người thày giáo vô cùng quan trọng, phải đưa ra được những câu nói ngắn gọn, dễ hiểu, rõ ràng, dứt khoát, linh hoạt. Đơn giản hoá vấn đề có lôgic tình huống, tạo nhiều cơ hội cho học sinh rèn luyện, tạo không khí vui vẻ trong giờ học, khuyến khích học sinh thực hành.

II.2.3. Phương pháp nghiên cứu:

– Dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp để rút ra những ưu khuyết điểm.

– Trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp để dự đoán và tìm cách tháo gỡ những tình huống có thể xảy ra ở mỗi dạng bài khi giảng dạy trên lớp.

– Nhận xét, đánh giá qua sự làm việc và kết quả của học sinh.

II.2.4. Các bước tiến hành thực nghiệm.

Khi giáo viên dạy dạng bài đọc này thì song song với việc giúp học sinh hiểu được ngữ liệu trong bài còn phải tạo ra những hoạt động luyện tập giúp học sinh thành thạo kĩ năng đọc. Đọc hiểu được những đoạn văn khác nhau với những mục đích khác nhau. Ở đây, vai trò chỉ đạo là học sinh, giáo viên lúc này chỉ là ngừơi hứơng dẫn và kiểm tra.

Thông thường khi dạy một bài đọc để phát triển kĩ năng đọc hiểu, giáo viên thường tiến hành theo ba bước cơ bản:

– Trước khi đọc ( Pre- reading)

– Trong khi đọc ( While reading)

– Sau khi đọc ( Post reading)

Mỗi một bước có những hoạt động cụ thể nhằm phát triển kĩ năng đọc hiểu cho học sinh.

* Pre- reading.

Trước khi bắt đầu đọc bài, giáo viên phải tạo ra những hoạt động để gây hứng thú cho học sinh.

– Dạy những từ mới, cấu trúc cần thiết.

– Giới thiệu tóm tắt nội dung bài đọc.

– Cho học sinh đoán trước nội dung bài đọc qua tranh hoặc qua một vài câu hỏi.

*While reading

Trong khi học sinh đọc bài, học sinh làm một số bài tập nhằm tìm hiểu, khai thác nội dung bài đọc. Vì vậy, học sinh có thể đọc bài nhiều lần để thực hiện bài tập. Trong phần này, các dạng bài rất đa dạng, giáo viên phải lựa chọn dạng bài cho phù hợp với nội dung bài đọc mà vẫn phát triển được kĩ năng đọc hiểu cho học sinh.

– T / F statements.

– Gap- fill

– Matching.

– Comprehension questions.

– Wh- questions.

Etc…

* Post reading

Sau khi học sinh đọc và làm các bài tập đọc hiểu, giáo viên có thể tiếp tục tiến hành các dạng bài tập khác nhằm đòi hỏi sự hiểu biết tổng quát toàn bài, liên hệ thực tế, chuyển hóa những thông tin vừa nhận qua bài đọc.

Giáo viên có thể sử dụng các dạng bài như :

– Gap- filling

– Role play

– Rewrite

– Mapped- dialogue

– Disscussion

Etc…

Có một số điểm cần phải nhớ khi dạy bài đọc qua một bài khoá hoặc một bài hội thoại:

+ Hỏi từ 1-2 câu hỏi chung (guiding questions) về những điểm chính của bài đọc trước khi đọc.

+ Học sinh trả lời câu hỏi sau khi đọc.

1. Pre reading: * Pre- teach vocabulary: * Open prediction. – GV vẽ hình ảnh 2 HS (Lan và Nam), yêu cầu HS dự đoán các môn thể thao mà Lan và Nam thích chơi ( mỗi người 3 môn)

– HS đưa ra dự đoán.

2. While reading:

* Read and check.

– Học sinh đọc bài và kiểm tra lại dự đoán của mình.

– Giáo viên đưa ra câu trả lời đúng và sửa lỗi nếu cần thiết.

* Comprehension questions.

– GV yêu cầu HS làm việc theo cặp, đọc lại bài và trả lời các câu hỏi trong SGK.

a. Which sports does Lan play?

( She swims, does aerobics and plays badminton.)

b. Does Lan play tennis?

( No, she doesn’t.)

c. Which sports does Nam play?

( He plays soccer, jogs and plays table tennis.)

d. Does Nam play table tennis?

( Yes, he does.)

3. Post reading.

* Survey:

– GV yêu cầu HS hỏi và trả lời với các bạn trong lớp về các môn thể thao mà các bạn có thể chơi.

Example exchange:

S1: Which sports do you do?

S1: What else?

S2: I play volleyball.

S1: Do you play table tennis.

Lesson 6: C3

1. Pre reading.

* Pre- teach vocabulary:

– GV cung cấp cho HS một số từ mới.

* True- False prediction:

– GV treo bảng phụ lên bảng, yêu cầu HS đọc những câu có sẵn trên bảng phụ và dự đoán xem câu nào đúng, câu nào sai.

– Yêu cầu HS làm việc theo cặp.

Poster:

1. There are two great rivers in Vietnam.

2. The Red River is longer than The Mekong River.

3. The Red River and the Mekong River both start in China.

4. The longest river in the world is not in Vietnam.

5. Phanxipang is the highest mountain in the world.

– HS đưa ra dự đoán.

2. While reading.

* Read and check.

– HS đọc bài và kiểm tra dự đoán của mình.

– GV sửa lỗi nếu có và đưa ra đáp án.

+ Answer keys:

1. T 2. F 3. F 4. T 5. F

* Comprehension questions:

– Yêu cầu HS hỏi và trả lời câu hỏi phần C3 theo cặp.

– Gọi HS hỏi và trả lời trước lớp.

1. Which is the longest river in Vietnam?

( The Mekong River is the longest river in Vietnam.)

2. Where does the Mekong River start?

( It starts in Tibet.)

3. Which is the longest river in the world?

( The Nile River longest river in the world.)

4. Which sea does the Nile river flow to?

( It flows to the Mediterraneane Sea.)

5. Which is the highest mountain in the world?

( Mount Everest is the highest mountain in the world.)

6. Which is the highest mountain in Vietnam?

( Phanxipang is the highest mountain in Vietnam.)

– Cho HS chơi trò chơi “Lucky numbers”

– Chia lớp thành 2 đội.

1. Lucky number!

2. What are the two great rivers in Vietnam?

3. Make a sentence about the highest mountain in the world.

4. How long is the Red River?

5. How high is the Mount Everest?

6. Make a sentence about the highest mountain in Vietnam.

7. Lucky number!

8. Where does the Red River start?

9. how long is the Nile?

10. How high is the Phanxipang?

11. Where does the Red River flow to?

12. Lucky number!

13. Make a sentence using “longer than” about the Mekong River and the Red

River.

14. Where does the Nile River start and where does it flow to?

15. Make a sentence about the longest river in Vietnam.

Lesson 4: Read

* Pre- teach vocab.

– Giới thiệu ngữ liệu mới.

– Kiểm tra từ mới dưới hình thức ” Slap the board”.

* Ordering statements.

– Giáo viên treo bảng phụ lên bảng.

– Yêu cầu học sinh đọc các câu trần thuật trên bảng phụ.

– Kiểm tra từ mới nếu có.

– Yêu cầu học sinh sắp xếp lại trật tự của các câu theo nội dung bài sắp đọc.

– Học sinh so sánh dự đoán của mình với bạn.

– Học sinh đưa ra dự đoán của mình

Poster:

a. Lighting costs a lot of money.

b. The electricity bills can be reduced by using energy- saving bulbs.

c. The consumers want to save money.

d. The innovations help us save money and conserve the Earth’s resources.

e. We can see how much energy efficency on the label of each electric appliance.

2. While reading.

* Read and check.

– Học sinh đọc bài và kiểm tra lại dự đoán.

* Matching:

– Yêu cầu học sinh đọc lại bài để tìm trong bài những từ tiếng Anh có nghĩa tương đương với những từ tiếng Việt bằng cách nối.

label (n)/ (v) cho nên

standard (n) thay thế

replace (v) nhãn/ dán nhãn

therefore cuối cùng

* Comprehension questions:

– Yêu cầu học sinh đọc lại bài và trả lời câu hỏi theo cặp. ( có thể cho HS chơi trò chơi “Lucky numbers”)

1. What are Western consumers interested in?

2. What can we do to spend less on lighting?

3. Mrs Jones uses only two ordinary bulbs and she pays US$8 for lighting.

How much will she pay if she uses two energy- saving bulbs instead?

4. What is the purpose of the labling scheme?

5. Why shoud we save energy?

3. Post reading.

Discussion about saving energy.

– Use solar energy

– Use public transport.

– Turn the lights on all day.

– Use energy.

– Save bulb.

– Lable scheme for appliances.

– Use motorbikes and cars everyday.

– Turn off the fans after using.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

, ngày 26 tháng 4 năm 2009 Người viết

VŨ THỊ HỒNG VÂN

PHẦN V:

Phần I: Phần mở đầu I. Tên đề tài

I. 1. Lí do chọn đề tài

I. 2. Mục đích nghiên cứu

I. 3. Thời gian, địa diểm

I. 4. Đóng góp về mặt lí luận, thực tiễn

I. 4. 1. Về mặi lí luận.

I. 4. 2. Về mặt thực tiễn.

Phần II: Nội dung

II. 1.Tổng quan

II. 2. Nội dung vấn đề nghiên cứu.

II.2.1. Đối tượng nghiên cứu.

II.2.2. Cơ sở lí luận.

II.2.3. Phương pháp nghiên cứu.

II.2.4. Các bước tiến hành thực nghiệm

Phần III: Phương pháp nghiên cứu và kết quả nghiên cứu

III.1. Phương pháp nghiên cứu.

III.2. Kết quả nghiên cứu.

Phần IV: Kết luận- kiến nghị

Phần V: Tài liệu tham khảo- phụ lục

PHẦN VI. NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG – PHÒNG GIÁO DỤC

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………….

Gia Sư Tiếng Anh Lớp 1 Gia Sư Dạy Tiếng Anh Cho Học Sinh Lớp 1

Hiện nay khi môn học tiếng anh được hầu hết các trường giảng dạy từ lớp 1. Chúng tôi và các bậc phụ huynh hiểu rằng tiếng anh trở nên cực kỳ quan trọng và cần thiết đặc biệt trong thời đại hội nhập như hiện nay. Chính vì vậy nhu cầu tìm cho học sinh ngày càng tăng đặc biệt là gia sư giỏi hiểu tâm lý học sinh lớp 1, dạy đúng cách đúng phương hướng.

Chúng tôi đội ngũ gia sư tiếng anh lớp 1 thuộc gia sư tiếng anh Hà Nội nhận dạy kèm gia sư tiếng anh tại nhà. Đội ngũ gia sư tiếng anh phát âm chuẩn (đảm bảo cho các con phát âm chuẩn ngay từ đầu để dễ dàng hơn trong giao tiếp tiếng anh sau này), giỏi về chuyên môn có kỹ năng sư phạm tốt và đặc biệt hiểu tâm lý trẻ.

Chúng tôi cam kết dạy thử hoàn toàn miễn phí 2 buổi đầu tiên để quí phụ huynh và học sinh đánh giá được tương đối chất lượng giảng dạy.

Chúng tôi đội ngũ gia sư tiếng anh lớp 1 thuộc nhận dạy tại nhà ở tất cả các quận huyện và các khu vực tại Hà Nội: Quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Tây Hồ, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai, Cầu Giấy, Hà Đông, Từ Liêm khu Mỹ Đình…

Khi có nhu tìm gia sư tiếng anh lớp 1 cho con em bạn hãy gọi cho chúng tôi Hotline: 0989.322.428 24/24. Chúng tôi tư vấn bạn hoàn toàn miễn phí vì vậy đừng ngần ngại khi gọi cho chúng tôi. (Một số phụ huynh băn khoăn khi gọi cho chúng tôi vì ngại rằng chúng tôi tư vấn, giới thiệu gia sư tiếng anh giỏi có mất phí không? Chúng tôi xin khẳng định rằng quí PH&HS không mất bất kì 1 khoản phí trung gian nào, ngoài ra chúng tôi còn cho gia sư qua dạy thử 2 buổi không tính phí. Trong trường hợp quí PH&HS cảm thấy gia sư không hợp muốn đổi gia sư hoặc không muốn học tiếp chỉ cần gọi báo cho chúng tôi. Nếu quí PH&HS nào ngại chỉ cần nhắn cho chúng tôi 1 tin nhắn thông báo thông tin người học và xin đổi hoặc không học tiếp vào SĐT hotline để chúng tôi biết. Khi đó chúng tôi sẽ thông báo trực tiếp với gia sư.

Dạy Tiếng Việt Trên Truyền Hình Cho Học Sinh Lớp 1

GD&TĐ – Bộ GD&ĐT phối hợp với Kênh truyền hình Giáo dục quốc gia VTV7 đã xây dựng chương trình “Dạy tiếng Việt lớp 1”; phát sóng lúc 9h hàng ngày trên VTV7, bắt đầu từ ngày 25/4/2020.

Để hỗ trợ học sinh lớp 1 tiếp thu kiến thức môn Tiếng Việt tại nhà – môn học công cụ, tạo nền tảng cho các em theo học tiếp lớp trên; đồng thời để giúp giáo viên có thêm phương tiện giảng dạy và truyền tải kiến thức môn tiếng Việt trong và sau mùa dịch Covid-19, Bộ GD&ĐT phối hợp với Kênh truyền hình Giáo dục quốc gia VTV7 đã xây dựng chương trình “Dạy tiếng Việt lớp 1”.

Chương trình được phát sóng lúc 9h hàng ngày trên VTV7, bắt đầu từ ngày 25/4/2020. và được đăng tải lại trên Facebook https://www.facebook.com/vtv7kids/, kênh Youtube (https://www.youtube.com/channel/UCLxaUpKb2qYs6_uKqvaWv-w).

“Dạy tiếng Việt lớp 1” gồm 12 số, cung cấp nội dung kiến thức của toàn bộ học kỳ 2 môn Tiếng Việt lớp 1, theo chương trình đã được Bộ GDĐT tinh giản. Mỗi số (dài khoảng 25 phút) giới thiệu kiến thức cốt lõi của một số bài học trong sách giáo khoa; trong đó chủ yếu hướng dẫn việc tập đọc và kỹ thuật viết các chữ cái, các vần mới.

Cùng với sự “đứng lớp” giảng dạy của giáo viên, các bài học được thiết kế sử dụng nhiều hình họa sinh động, hình ảnh trực quan, các trò chơi ôn luyện… để tạo hứng thú học tập và giúp học sinh tiếp thu kiến thức hiệu quả.

Giáo viên tham gia giảng dạy trong chương trình được tuyển lựa kỹ lưỡng, là các thầy cô vừa giỏi chuyên môn, vừa có kỹ năng dạy học trên truyền hình.

Cung cấp thêm một kênh học tập trên truyền hình, Bộ GDĐT kỳ sẽ giúp học sinh lớp 1, đặc biệt các em ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa không có điều kiện hoặc gặp khó khăn trong việc học online, dễ dàng tiếp cận và học tập tại nhà. Mục tiêu là không để học sinh nào vì hoàn cảnh khó khăn mà bị bỏ lại phía sau.

“Việc tự học qua truyền hình hay internet với học sinh lớp 1 là rất khó khăn. Tuy nhiên, trong điều kiện các em đã nghỉ học ở trường dài ngày vì dịch Covid-19, để đảm bảo không có tình trạng học sinh không biết đọc, biết viết khi lên lớp 2, ngành GD&ĐT rất mong nhận được sự đồng hành, hỗ trợ của các bậc phụ huynh học sinh, các lực lượng xã hội khác, để việc học tại nhà của các em đạt hiệu quả, học sinh hoàn thành chương trình theo các yêu cầu của chuẩn đầu ra”, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học – TS. Thái Văn Tài nói.

Ngoài dạy tiếng Việt trên truyền hình cho học sinh lớp 1, Bộ GD&ĐT đang tiếp tục cùng VTV7 thực hiện chương trình dạy Toán lớp 1, dạy Tiếng Việt và Toán cho học sinh lớp 2. Những chương trình này sẽ được Sở GDĐT các tỉnh giới thiệu tới các nhà trường để học sinh, giáo viên tham khảo, học tập.