Bạn đang xem bài viết Đôi Điều Bàn Luận Về Việc Dạy Và Học Tiếng Anh Ở Bậc Thpt được cập nhật mới nhất trên website Theolympiashools.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
1.Dùng giáo trình do nhà xuất bản bản ngữ biên soạn
Ngôn ngữ không thể bị tách rời khỏi văn hóa, việc bộ sách giáo khoa tiếng Anh phổ thông “mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc” như hiện nay là một sự minh chứng rõ ràng nhất cho việc ngôn ngữ bị tách rời khỏi văn hóa. Điều này làm tiếng Anh trong sách giáo khoa phổ thông bị sai văn phong trầm trọng. Tiếng Anh trong đó được diễn đạt một cách kỳ quặc, khác thường, thậm chí là sai biệt với văn phong tiếng Anh bản ngữ.
Thay vì cố gắng đưa văn hóa Việt Nam vào sách giáo khoa tiếng Anh lớp 6 – 12, ta hãy dùng một bộ sách tiếng Anh giao tiếp do nhà xuất bản bản ngữ biên soạn, phát hành. Bộ sách được chọn là sách chuyên dạy nghe – nói, dạy tiếng Anh giao tiếp. Học cái gì thì sử dụng được ngay cái đấy vào thực tiễn.
Bộ sách Streamline English của Nhà xuất bản Oxford là bộ sách dạy tiếng Anh giao tiếp thuộc loại dễ học, dễ dạy nhất trong tất cả các bộ sách tiếng Anh giao tiếp xưa nay. Từ vựng, phiên âm, cấu trúc, chú thích, bài đàm thoại được lồng ghép nhịp nhàng, thể hiện rõ ràng qua từng bối cảnh giao tiếp thực tế trong văn hóa giao tiếp của chính ngôn ngữ đó. Học đến đâu dùng ngay được đến đó. Học 20 bài quyển 1 là tự giới thiệu bản thân được trên 100 từ. Học 40 bài là đã có đủ vốn tiếng Anh để làm nhân viên bán hàng ở các cửa hàng, siêu thị được rồi. Và chỉ cần 80 bài quyển 1 là người học đã giao tiếp với người nước ngoài một cách thoải mái.
Rõ ràng là trong thực tế, học tiếng Anh đơn giản là để giao tiếp được bằng tiếng Anh. Khi đi xin việc làm, nhà tuyển dụng phỏng vấn ứng cử viên bằng tiếng Anh. Không trả lời được, không giao tiếp được bằng tiếng Anh là không đạt yêu cầu. Chỉ có vậy. Không nhà tuyển dụng nào kiểm tra xem tiếng Anh của ứng cử viên đó có đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc hay không.
Trong môn tiếng Anh ở Việt Nam, có rất nhiều thứ các em phải học, thầy cô phải dạy hàng ngày mà cả thầy lẫn trò chẳng biết dùng nó vào việc gì ngoài chuyện để làm bài tập, để thi. Đó là hàng đống ngữ pháp chất ngất. Ngữ pháp trong giảng dạy và thi cử đã đẩy học sinh và thầy cô giáo đến chuyện không cần học và dạy hai kỹ năng nghe – nói cho đúng mực.
Vậy thì, sao mục tiêu đào tạo tiếng Anh không thể đơn giản là “Học tiếng Anh để giao tiếp tốt bằng tiếng Anh”? Nếu ta mạnh dạn thay đổi, học sinh và thầy cô giáo sẽ được giải phóng khỏi sức ì hiện tại. Việc học và dạy tiếng Anh ở nước ta sẽ bước sang trang mới.
2. Thi nghe – nói thay vì thi ngữ pháp, đọc hiểu
Học sinh sẽ chẳng bao giờ học nghe – nói tiếng Anh và giáo viên chẳng bao giờ tập trung dạy nghe – nói trong khi đề thi toàn là ngữ pháp, cấu trúc, từ vựng, đọc hiểu…
Có thể khẳng định rằng format đề thi như thế nào thì giáo viên sẽ dạy như thế ấy và học sinh cũng theo y như thế để học, để thi cho đậu. Tỷ lệ kiểm tra kỹ năng nghe trong đề thi hiện tại là chưa đủ và hoàn toàn không có thi nói. Thay đổi quan trọng này tạo ra mục tiêu thống nhất, đồng bộ, xuyên suốt trong trục giáo trình – giảng dạy – thi cử: học tiếng Anh để giao tiếp tốt bằng tiếng Anh. Nếu không thay đổi cách thi cử đối với môn tiếng Anh, ta có thay đổi giáo trình gì cũng vô ích.
3. Thay đổi cách giảng dạy
Trong môn tiếng Anh ở ta, có rất nhiều thứ các em phải học, thầy cô phải dạy hàng ngày mà cả thầy lẫn trò chẳng biết dùng vào việc gì ngoài làm bài tập, đề thi. Ngữ pháp trong giảng dạy và thi cử đã đẩy học sinh và thầy cô giáo đến chuyện không cần học và dạy hai kỹ năng nghe – nói đúng mực. Mục tiêu vượt qua thi cử vô hình trung làm ngữ pháp lên ngôi, đẩy việc dạy nghe – nói (giao tiếp) xuống hàng thứ yếu.
Ta đang thực hiện việc nâng chuẩn giáo viên nhưng sự thật là việc đậu B1, B2 của các giáo viên không hề dính dáng gì đến năng lực giảng dạy, kỹ năng sư phạm cả. Giáo viên không thể dạy nghe – nói, dạy tiếng Anh giao tiếp đơn giản vì giáo trình và mục tiêu thi cử không cho phép họ dạy như thế. Không phải họ không thể hoặc không biết dạy tiếng Anh giao tiếp, dạy nghe – nói. Họ có hàng đống kỹ năng dạy tiếng Anh giao tiếp khi học ở trường Sư phạm, ở các lớp tập huấn hàng năm. Tuy nhiên, họ bị mắc kẹt giữa giáo trình và đề thi như hiện tại. Rất nhiều anh chị em giáo viên có đầy đủ năng lực chuyên môn, có phương pháp sư phạm giỏi. Chỉ là họ không có đất dụng võ mà thôi.
Thay đổi cả một hệ thống, một tư tưởng giáo dục không phải chuyện dễ dàng ngày một ngày hai. Cho nên để đảm bảo vốn kiến thức và phương pháp học tiếng Anh của bản thân hiệu quả nhất thì việc tự học cần được chú trọng hàng đầu. Hiện nay có rất nhiều những đầu sách học tiếng Anh vô cùng hữu dụng cho tất cả các độ tuổi đặc biệt là các bạn học sinh lứa tuổi 12 – 17. Chỉ cần cần cù một chút, đam mê một chút thì tiếng Anh sẽ chẳng thể làm khó các bạn!
Tản Mạn Đôi Điều Về Việc Học Tiếng Hàn Có Khó Không
Tản mạn đôi điều về việc học tiếng Hàn có khó không?
Thứ năm – 16/02/2017 09:23
Cùng với làn sóng âm nhạc và điện ảnh Hàn Quốc, nhu cầu học Hàn ngữ ngày càng phổ biến. Vậy theo bạn, học tiếng Hàn có khó không?
Tạo sao chúng ta lại khó học ngoại ngữ?
Có thể chắc chắn một điều rằng thời gian học tiếng Hàn rất quan trọng, nhưng không phải là yếu tố quyết định đến sự thành thạo ngôn ngữ. Thậm chí khi bạn học tiếng Hàn nhiều năm vẫn không thể giao tiếp tiếng Hàn ngay cả những câu đơn giản. Có thể do áp dụng sai phương pháp học tiếng Hàn mà kết quả đem lại không như bạn mong muốn, khiến bạn dần mất đi động lực để chinh phục ngôn ngữ này. Thậm chí khi bạn hỏi những người quen học tiếng Hàn lâu năm rằng “Học tiếng Hàn có khó không?”, bạn sẽ nhận được câu trả lời rằng việc học rất khó, thậm chí có lời khuyên bi quan rằng đừng nên học ngôn ngữ này. Thế nhưng, việc học một ngôn mới không phải là điều dễ dàng bao giờ, nếu bạn không chăm chỉ và có quyết tâm thì bạn sẽ không bao giờ học thành công bất kì ngôn ngữ nào.
Những lỗi sai dễ mắc phải khi học tiếng Hàn
Bình thường bạn sẽ viết tiếng Việt theo hàng ngang, trong khi đó tiếng Hàn bạn sẽ phải làm quen với cách viết hàng ngang và hàng dọc. Bên cạnh đó, cách ghép vần tiếng Hàn cũng khá khó vì là ngôn ngữ chắp dính, có nhiều từ phát âm giống nhau nên bạn sẽ khó định hình được trật tự âm tiết trong một từ. Tiếng Hàn cũng có những cách nuốt âm, nối âm nên cũng gây khó khăn cho người mới học khi nghe tiếng Hàn. Bạn cũng cần phải tìm hiểu sơ bộ về tiếng Hàn trước khi bắt tay vào chinh phục ngôn ngữ này.
TRUNG TÂM TIẾNG HÀN SOFL Địa chỉ: Cơ sở 1 Số 365 – Phố vọng – Đồng tâm -Hai Bà Trưng – Hà NộiCơ sở 2: Số 44 Trần Vĩ ( Lê Đức Thọ Kéo Dài ) – Mai Dịch – Cầu Giấy – Hà Nội Cơ sở 3: Số 54 Ngụy Như Kon Tum – Thanh Xuân – Hà Nội Cơ sở 4: Số 491B Nguyễn Văn Cừ – Gia Thụy – Long Biên – Hà Nội Email: trungtamtienghansofl@gmail.comĐiện thoại: 0962 461 288 – 0917 86 12 88Website : http://trungtamtienghan.edu.vn/
Lạm Bàn Về Dạy Và Học Tiếng Trung Quốc Ở Việt Nam
Giáo dục
- Trần Gia Ninh
Lựa chọn học tiếng Trung Quốc là điều hoàn toàn bình thường, vì học được một ngoại ngữ mới là có thêm một cách tư duy khác ngoài cách quen thuộc theo tiếng mẹ đẻ, đồng thời ai thành thạo thêm một ngoại ngữ thì cơ hội việc làm cũng lớn hơn, có được nhiều kiến thức, nhiều thông tin hơn, nhất là với thứ ngôn ngữ phổ biến như tiếng Trung Quốc (chỉ xếp sau Anh văn).
Việc dạy và học Trung văn như một ngoại ngữ là có ích cho người học và cho sự phát triển của đất nước.
Hán ngữ và tiếng Trung Quốc
Khi ai đó hỏi người Trung Quốc nói tiếng gì, tất nhiên câu trả lời là họ nói tiếng Trung Quốc. Thực ra, người Trung Quốc sẽ không trả lời như vậy. Họ sẽ trả lời hoặc là tôi nói tiếng Mandarin (tức tiếng Quan thoại hay tiếng Bắc Kinh), hoặc là tiếng Quảng Đông-Cantonese, tiếng Hakka (Khách gia-Hẹ), tiếng Hokkien (Phúc Kiến)… Đưa cho họ một tờ báo, xem thì ai cũng hiểu nội dung, nhưng đọc thành tiếng thì chẳng ai hiểu ai cả, khi nói chuyện với nhau cũng vậy, chẳng ai hiểu ai. Nhưng khi đưa cho họ một quyển sách Trung Hoa cổ, ví dụ như Hán Thư, Lã thị Xuân Thu… thì họ đọc được, nhưng cũng chẳng hiểu được mấy tí, vì sách cổ Trung Hoa viết bằng Văn ngôn, khác xa với tiếng Trung hiện đại, muốn hiểu phải có chuyên gia Hán ngữ phiên dịch ra văn viết thông thường, gọi là Bạch thoại. Có thể nói Trung Quốc có một chữ viết thống nhất là chữ Hán, có một ngữ văn thống nhất là Trung văn ngày nay và Văn ngôn – Hán ngữ ngày xưa, nhưng Trung văn với Văn ngôn không giống nhau, còn tiếng nói thì xưa và nay đều không thống nhất. (…) Ngôn ngữ quan phương hiện tại (Quan thoại), được gọi là phương ngữ miền Bắc, là một ngôn ngữ đã bị Hồ hóa trong quá trình lịch sử, tính ưu mỹ của Hán ngữ đã hỗn giao với sự thô sơ của ngôn ngữ các rợ Hồ làm cho Hán ngữ trở nên thô thiển, đơn sơ, ngoại trừ việc còn giữ được cơ sở kết cấu ngữ pháp (chủ vị tân) của ngữ hệ Hán-Tạng ra, thì Hán ngữ về cơ bản đã bị đánh gục tơi tả, cuối cùng bị Hồ hóa theo ngữ hệ Altai, là loại ngôn ngữ địa phương mà về tính chuẩn xác, tính thực dụng thì lạc hậu hơn nhiều so với các phương ngữ miền Nam (…) mà đại diện là Cantonese (tiếng Quảng Đông). Từ cuối nhà Đường trở đi, phía Bắc bị cai trị lâu dài bởi Khiết Đan, Nữ Chân (Mãn), Mông Cổ v.v. (thuộc ngữ hệ Altai là chủ yếu) do đó chắc chắn là phương ngữ phía Bắc khó mà tránh khỏi bị Altai hóa, nên mất đi hầu hết những đặc điểm vốn có trong Hán ngữ, đồng thời bị pha tạp một số khẩu âm (giọng) ngoại tộc. Tỷ như, đại bộ phận các giọng địa phương của Hán ngữ đều có thể phân biệt hầu hết các âm gió-nổ (尖团音Tip group tone) trong khi các ngữ thanh phương Bắc không thể phân biệt được. Đa số Hán ngữ địa phương đều phân biệt nhập thanh (入声) với phi nhập thanh (非入声). Tiếng phương Bắc không phân biệt được. Tiếng phương Bắc chỉ có bốn âm giai điệu (Tone): Âm bình 阴平, Dương bình 阳平, Âm thượng 阴上, Âm khứ阴去。 Còn Hán ngữ lại phân thành tám âm giai điệu: Âm bình 阴平, Dương bình 阳平, Âm thượng 阴上, Dương thượng 阳上, Âm khứ 阴去, Dương khứ 阳去, Âm nhập 阴入, Dương nhập 阳入. Các phương ngữ miền Nam, trừ tiếng Việt Quảng Đông 粤语 ra, đều ít nhiều có hiện tượng mất bớt âm giai điệu, nhưng số âm giai điệu còn lại đều nhiều hơn phương Bắc, ít nhất là còn từ sáu âm giai điệu trở lên. Và tiếng Việt Quảng Đông không chỉ bảo tồn tám âm giai điệu, mà còn thêm vào giữa Dương nhập và Âm nhập một âm giai điệu nữa là Trung nhập, thành ra tiếng Việt Quảng có đến chín âm giai điệu. (…) Ngữ hệ Altai được đặc trưng bởi ít ngữ tố, đa âm tiết, ví dụ đặc biệt là Nhật Bản ngữ. Phương Bắc, so với phương Nam, cũng hiện rõ đặc điểm này, do đó mà có khó khăn lớn khi biểu đat. Tỷ như dùng tiếng phổ thông khi giảng giải có dính dáng chút ít học thuật, chỉ dùng lời nói (khẩu ngữ) không thôi là không đủ, bắt buộc phải viết ra chữ (văn tự) thì mới hiểu được. Bởi vì có quá ít âm tố 音素, dẫn đến hiện tượng đồng âm quá nhiều. Vì vậy, để làm giảm đồng âm, miền Bắc sẽ phải tăng số lượng các âm tiết của từ vựng. Ở phía Bắc, các từ vựng đơn âm tiết là cực kỳ ít, còn số từ vựng đa âm tiết thì cực lớn. Các phương ngữ miền Nam thì ngược lại, vì có nhiều âm tố nên hiện tượng đồng âm ít hơn, số lượng từ vựng đơn âm rất phong phú, số từ vựng có hơn ba âm tiết rất ít, và chủ yếu là đến từ tiếng miền Bắc. Vậy cho nên để thể hiện cùng một ý tứ trong một đoạn thoại, người miền Nam dùng ít từ hơn người Bắc, đương nhiên là hiệu suất ngôn ngữ cao hơn nhiều. Ngôn ngữ Bắc chẳng hiểu sao lại bắt người ta đệm thanh âm “ěr -儿” vào, chẳng có lý do mà phải tăng thêm âm tiết “ěr”, khiến ngôn ngữ diễn đạt đã có hiệu suất không cao, nay lại càng bị kéo thấp xuống nữa. Nếu bạn so sánh phim Hồng Kông bản tiếng Quảng Đông với bản tiếng Quan thoại, bạn sẽ phát hiện ra hiện tượng trong bản tiếng Quan thoại nhiều nội dung ngôn từ bị cắt gọt bớt. Lý do là tiếng Quảng Đông chỉ với mười từ âm tiết là đủ ý cho một đoạn thoại, còn tiếng Quan thoại phải sử dụng đến 15, 16 âm tiết mới đủ, cho nên để khớp lời với miệng, chỉ có cách cắt bớt nội dung. Từng có người luận bàn rằng Hán ngữ là một loại ngôn ngữ lạc hậu, luận điểm có nhiều chỗ sai, nhưng cũng có rất nhiều điểm là hoàn toàn chính xác, tìm hiểu đến nơi đến chốn thì ra người đánh giá này chỉ dựa trên cơ sở của Hán ngữ hiện tại, lý luận sặc mùi sùng ngoại, thật đáng thương hại, anh ta dường như quên mất Hán ngữ cổ rồi! Trong thực tế, chúng ta phải dám thừa nhận, ngôn ngữ đơn âm, nếu chỉ có bốn âm giai điệu mà lại bắt nó phải rạch ròi chuẩn xác thì thật nực cười. Hãy thử lấy phương ngữ Hakka là đại diện của miền Nam, nhờ số cách phát âm nhiều, rất dễ giải quyết hiện tượng câu đa nghĩa quá nhiều trong Hán ngữ hiện đại. (…) Âm phương Bắc có rất nhiều các loại âm mà phương Nam không có như âm ěr (“ㄦˇ,hậu tị âm (âm sau mũi 后鼻音),hậu thiệt âm (âm sau lưỡi 后舌), là những âm khi nói cần phải vận động đầu lưỡi rất nhiều, phương nam ít loại âm này nên nói được rất nhanh. Mọi người hãy thử nói câu “骑车上公园儿” theo ngữ ngôn Bắc (Qí chē shàng gōngyuán er = Đi xe ra công viên) rồi so với cách nói miền Nam “骑 sang公园” xem nó chậm hơn bao nhiêu. Tốc độ của tư duy tỷ lệ thuận với tốc độ lời nói, nói nghĩ kiểu ậm à ậm ừ lai rai của người phương Bắc làm sao có thể cạnh tranh được với hiệu suất cao của người phương nam? (…) Tại sao một số học giả tin rằng tiếng Quảng Đông gần Hán ngữ cổ hơn cả? Thật ra đây không phải là nói chơi, bởi vì tiếng Quảng Đông đã bao hàm tất cả bốn thanh tám vần của Hán ngữ, một phần nhỏ chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ các dân tộc Lĩnh Nam [ý nói các dân tộc ở cực Nam Trung Hoa như xưa như, Âu Lạc, Nam Việt …](…) trong tiếng Quảng Đông có một số lượng lớn các từ bế âm tiết, âm đọc phụ âm nguyên âm tương đương nhau, có hoặc không có bế âm tiết tạo ra khác biệt rất lớn. Tỷ dụ hai chữ Đại 大 và Đạt 达 trong tiếng Quan thoại chỉ đọc khác nhau ở âm vận (dấu thanh điệu) “dà và dá” nhưng trong cách phát âm tiếng Quảng Đông chữ đầu là âm tiết mở (khai âm), chữ sau là âm tiết đóng (bế âm). Chữ đầu đọc là “dai”, chữ sau đọc là “dat” (chữ t là ký hiệu biểu thị tác dụng đóng của âm tiết thứ hai, không phát thành âm). Tiếng Quảng Đông không có âm uốn lưỡi, cũng giống như Hán ngữ cổ vậy. Nhìn ra ngoài Trung Quốc xem hai nước Việt Nam và Hàn Quốc là những nước chịu ảnh hưởng của Hán ngữ cổ, tuy rằng họ có bản ngữ dân tộc riêng, nhưng khi họ đọc chữ Hán (Hán tự thỉnh thoảng dùng để biểu ý khi ghi chép sang bản ngữ dân tộc của họ), thì thực là rất giống tiếng Quảng Đông. Ví dụ, tất cả chúng ta đều biết rằng thương hiệu Hàn Quốc “三星 Tam Tinh-Ba sao) thì hai chữ Hán đó Hàn Quốc đọc là “Samsung”, còn tiếng Việt (tam tinh) và tiếng Quảng Đông (saam sing) đọc hai chữ này gần giống nhau (…) Sự phân hóa của Hán ngữ bắt đầu lúc nào? Thời Mạt Đường Ngũ Đại, dân thiểu số lại gây vó ngựa sa trường, Bắc Tống chỉ lo giữ cho được đất gốc của Trung Quốc, còn Yên Vân thập lục châu (16 vùng thuộc Bắc Kinh Thiên Tân và bắc phần Sơn Tây Hà Bắc ngày nay) rơi vào tay Khiết Đan, cũng là lúc bắt đầu thời Hán Hóa Khiết Đan. Khiết Đan thuộc chi ngôn ngữ Altai-Mông Cổ (một phiên bản cổ của chi ngôn ngữ Altai -Tungus), khác với mười sáu nhóm nhỏ ngôn ngữ của rợ Hồ. Vùng đất Hán cũ trước khi bị người Khiết Đan chiếm vốn đã có một lịch sử văn minh, cho nên để gìn giữ chế độ Khiết Đan cũ, họ đã cố phân chia ra hai vùng Khiết Đan và Hán riêng biệt để cai trị. Họ lấy ngôn ngữ dân tộc làm ngôn ngữ chính thức của đế quốc, có văn tự riêng, tuy vậy thì văn hóa dần dần cũng bị Hán đồng hóa, dù dưới sự cai trị lưỡng chế, nhưng ngôn ngữ không phải là chuyện của riêng ai, theo chính trị thâm nhập mạnh mẽ vào Bắc Hán ngữ, bắt đầu làm cho cách phát âm của Hán ngữ pha giọng Altai từ đấy. Vả lại văn tự Hán ngữ thì tốt cho việc biểu đạt mà không đòi hỏi cùng một khẩu ngữ, nên chi Hán ngữ có sức mạnh lớn đồng hóa các tộc khác, không cần tác động lên văn tự của ngôn ngữ Khiết Đan có vị thế chính trị cao hơn. Mặc dù người Khiết Đan đọc chữ Hán với âm khác với người Hán, nhưng về văn tự thì đều hiểu như nhau, nên sự phát âm như nhau là không bắt buộc. Tôi đoán từ thời gian này trở đi, khi Bắc Kinh đã trở thành lãnh thổ phía Nam của nhà Liêu, ngôn ngữ nói của Trung Quốc vì phục tùng tầng lớp cai trị của đế chế Đại Liêu nên bắt đầu quá trình Hán ngữ phía Bắc biến hóa theo phát âm của kiểu Altai. Âm uốn lưỡi (卷舌音-quyển thiệt âm retroflex) (bao gồm cả âm bật lưỡi 弹舌音-Đạn thiệt âm- Tongue sound) cực nhiều trong ngữ hệ Altai, ở đây, từ phía Bắc của Bắc Trung Quốc, ngữ âm Altai bắt đầu thâm nhập vào Hán ngữ. Kim diệt Liêu, chia đôi thiên hạ, nửa theo chế độ của nhà Kim, người Hán thiên di về Nam, Hán ngữ Hoa Bắc nhận thêm kẻ xâm lược mới: ngữ hệ Altai-Tongus, bắt đầu thời kỳ âm cuốn lưỡi gia tăng mạnh, lượng bế âm mất dần. (…) Nhà Tống nam di, sau khi định đô ở Lâm An, ngôn ngữ của tầng lớp quan liêu quý tộc bị ảnh hưởng bởi phương ngữ Hán Ngô Việt vốn có nguồn gốc Hán Tạng đã tồn tại trước thời Xuân Thu, so với Hán ngữ thời Nam Bắc triều thì đã phân hóa rõ rệt. Hán ngữ Hoa Bắc đã bị Tongus hóa, nhưng vùng miền núi có thể là biệt lệ (bằng chứng cho thấy rằng nay vẫn còn có những ngôi làng ở khu vực miền núi ở Sơn Tây còn giữ được thanh nhập của Hán ngữ), còn khẩu ngữ của hoàng thân quốc thích và quan lại triều Nam Tống thì đã chuyển đổi dần theo giọng nói của Ngô Việt. (Sau 1.500 năm lịch sử, vốn dĩ đã thông dụng Hán ngữ, muốn đồng hóa họ e cũng khó khăn), và phía Nam của dãy Nam Lĩnh, vì núi non cản trở, nên ở đây Hán ngữ gốc có từ thời Tần Thủy Hoàng ít bị thay đổi. Loại Hán ngữ phá cách từ phương bắc theo vó ngựa xâm lược của dân du mục, khi đến được Giang Nam, Hoa Nam vượt qua bao nhiêu núi đồi cách trở nên ảnh hưởng đã yếu đi nhiều, chưa kể đến hàng rào cản là dãy Lĩnh Nam. Đế quốc Mông Cổ chiếm nước Kim, một lần nữa Hán ngữ Hoa Bắc lại nhận thêm kẻ xâm nhập với khẩu ngữ mới (người Mông Cổ giết hại 90% dân số sống ở Bắc Trung Quốc, và phần còn lại phải chịu tuân phục). Lần này kẻ thống trị Hoa Bắc lại nói tiếng thuộc chi ngữ hệ Altai-Mông Cổ. Ai có hứng thú xem lại lịch sử nhà Nguyên nên biết rằng sự cưỡng bức chính trị thời này là đặc biệt kinh khủng. Các quan chức người Hán ai mà không tập theo tiếng Mông Cổ thì không thể yên ổn được (…) Lúc này, trải qua sự xâm nhập và ảnh hưởng của chi ngữ ngôn Altai-Mông Cổ lẫn chi Altai-Tongus vào Hoa Bắc, đầu tiên tại kinh đô Đại Đô (tức Bắc Kinh) của nhà Nguyên đã hình thành nên tiếng Nguyên Đại Đô (tiếng Bắc Kinh), đó chính là thủy tổ của tiếng Phổ thông ngày nay. Nhà Minh lật đổ sự thống trị thực dân Mông Cổ, lập Kinh Đô ở Nam Kinh, nhưng rồi thân vương mạnh nhất là Yên Vương Chu Lệ ở Bắc Kinh thoán đoạt ngôi vua, lại quay về Bắc Kinh đóng kinh đô, giữ Nam Kinh làm kinh đô phụ (Bồi Đô-陪都), dẫn tới số phận Hán ngữ Hoa Bắc bị Hồ hóa là điều không thể thay đổi. Cuối cùng thì nhà Minh cũng xác định tiếng nói của Đại Đô là tiếng nói chính thức của nhà nước. Sau đó, các vùng phụ thuộc Minh, các sắc dân Mãn Châu thuộc chi Tongus, nơi đã từng khởi binh chinh phục Trung Hoa, đều bị Hán hóa hoàn toàn, về văn hóa thì bị ảnh hưởng bởi Trung Hoa, nhưng tiếng nói của vùng Hoa bắc cũng bị pha tạp, cuối cùng hình thành nên cơ sở cho ngôn ngữ hiện tại là tiếng phổ thông Quan thoại (mandarin) – kỳ thực thì tên gọi này đối với người Hán là một đại sỉ nhục, vì Mandarin chính là phiên âm của”满大人- Mãn đại nhân” tức là “tiếng nói của các quan Mãn Châu” (chữ Quan thoại cũng từ đó mà ra).
Hán tự, Hán văn và Trung văn – học sinh cần học gì?
Sau khi đọc đoạn viết của học giả Viên Đằng Phi, chắc ai cũng thấy rõ là chuyện học Hán tự, Hán văn và Trung văn là hoàn toàn khác nhau Đối với người Trung Quốc, phương Bắc, phương Nam… thì ngoài phát âm tiếng mẹ đẻ của họ ra, họ chỉ phải học tiếng Quan thoại mà Bắc Kinh gọi là tiếng Phổ thông, Đài Loan gọi là Quốc ngữ… như vậy họ cũng đồng thời học được Hán tự (chữ Hán), còn Hán văn (cổ) dưới dạng Văn ngôn là ngữ văn của các chuyên gia, người dân Trung Hoa chỉ cần dùng Bạch thoại là dạng ngữ văn cho mọi người. Tiếng Trung Quốc (sau đây gọi là Trung văn) hiểu như vậy chính là Chữ Hán + Ngữ văn Bạch thoại + phát âm Bắc Kinh. Mọi người không phải là người Trung Hoa, muốn học tiếng Trung Quốc thì chỉ cần học chừng đó là đủ. Nên dạy và học Trung văn ở Việt Nam như thế nào?
Đứng trên góc nhìn khoa học, dù khen hay chê, dù yêu hay ghét thì Trung văn vẫn là một ngoại ngữ phổ biến và sẽ ngày càng phổ biến. Việc dạy và học Trung văn như một ngoại ngữ là có ích cho người học và cho sự phát triển của đất nước. Vì vậy nên khuyến khích cho những người yêu thích và có tầm nhìn lựa chọn ngoại ngữ này, còn những người vì những lý do riêng không yêu thích thì cũng không nên bài xích. Tuy nhiên, không nên chỉ dạy Trung văn cho người Việt giống như dạy cho người Nga, người Mỹ… Nên kết hợp dạy chữ Trung Quốc ngoài phát âm theo pinyin (Bính âm) cần kèm theo âm Hán Việt nữa. Ngoài ra số tiền dự tính dùng cho việc đưa Hán Việt vào trường phổ thông (nếu có) nên giao phần lớn cho các nhà Hán Nôm số hóa, dịch và chú giải toàn bộ kho tàng văn hóa Hán Nôm của nước ta, (thực ra không quá lớn, đến mức không làm nổi trong một vài năm), và cho phép mọi người tiếp cận miễn phí kho tàng văn hóa đó. Một phần tiền nên dành cho việc đào tạo thêm Hán Việt (chữ Nho) cho các thầy cô giáo dạy Trung văn. Nếu làm được như vậy thì chắc chắn đủ nhân lực cho việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng như kết nối thế hệ trẻ với kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc. ————- 1 http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/day-chu-han-thay-tieng-anh-vi-nhung-le-sau-324496.html 2 http://baodatviet.vn/chinh-tri-xa-hoi/giao-duc/tieng-trung-thanh-ngoai-ngu-thu-nhat-bo-gd-dt-len-tieng-3319332/
Bàn Học Đôi Hello Kitty Dễ Thương Bhgs
Bàn học đôi Hello Kitty MSP: BHGS-KITTY2.02 là mẫu bàn học đôi Hello Kitty có kiểu dáng bàn học đôi liền giá sách dành cho 2 bé gái, sắc màu trắng hồng, trang trí Hello Kitty dễ thương với hình ảnh Hello Kitty ôm nơ và chữ ký Hello Kitty duyên dáng với nơ xinh trên cánh tủ của giá sách, Hello Kitty đi chơi cùng thỏ Melody trên cánh tủ đồ dưới mặt bàn học.
Mẫu thiết kế bàn học đôi liền giá sách Hello Kitty MSP: BHGS-KITTY2.02
Bàn học đôi liền giá sách Hello Kitty MSP: BHGS-KITTY2.02 được phối màu với 2 màu sắc trắng và hồng rất bắt mắt bởi phần hậu và mặt bàn của bàn học được sơn màu hồng phấn được pha màu rất đẹp của Wedesign, các chi tiết khác gồm có kệ sách, chân bàn, tủ đồ 1 ngăn kéo – 1 cánh đều được sơn màu trắng nổi bật trên nền màu hồng của phần hậu giá sách. Các chi tiết trang trí Hello Kitty của bàn học, Hello Kitty ôm nơ & chữ ký Hello Kitty trên cánh tủ giá sách, Hello Kitty đi chơi cùng Thỏ Melody và tay nắm Hello Kitty đều được sơn tạo nét màu hồng. Bàn học đôi Hello Kitty BHGS-KITTY2.02 có chiều dài 2m, kệ sách liền bàn cũng được làm theo chiều dài này và có kích thước là 1m97. Với kệ sách lớn như vậy, Wedesign thiết kế kệ sách có 4 hồi chống xuống mặt bàn, trong đó 2 hồi được làm cách nhau 32cm ở giữa, chính là vị trí tủ đô 1 ngăn kéo – 2 cánh được đặt dưới mặt bàn. Hai cánh tủ của giá sách liền mặt bàn học đôi Hello Kitty MSP: BHGS-KITTY.202 trang trí Hello Kitty duyên dáng ôm chiếc nơ lớn phía trước cùng chữ ký Hello Kitty điệu đà có nơ xinh ở cuối. Tủ đồ dưới mặt bàn được làm kiểu 1 ngăn kéo – 2 cánh mở rộng 55cm. Với chiều ngang 55cm, Wedesign làm 1 ngăn kéo lớn, ngăn kéo này được đóng mở bằng tay nắm gỗ được Wedesign tạo hình hello Kitty điệu đà cho bé. Hai cánh tủ phía dưới ngăn kéo được làm thành 2 cánh mở, trang trí tạo hình Hello Kitty dạo chơi vườn hoa tuy líp cùng Thỏ Melody.
Kết cấu và các công năng thiết kế cho bàn học đôi liền giá sách Hello Kitty BHGS-KITTY2.02
Video về mẫu bàn học đôi liền giá sách Hello Kitty BHGS-KITTY2.02 phiên bản bàn dài 1m8 có mặt bàn sâu 60cm dành cho nhu cầu học tiếng Anh nhiều của 2 bé gái sinh đôi Minh Như và Minh Thư
Cập nhật thông tin chi tiết về Đôi Điều Bàn Luận Về Việc Dạy Và Học Tiếng Anh Ở Bậc Thpt trên website Theolympiashools.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!