Bạn đang xem bài viết Đề Tài Một Số Biện Pháp Dạy Tăng Cường Tiếng Việt Trong Môn Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số Lớp 3 Trường Tiểu Học Võ Thị Sáu được cập nhật mới nhất trên website Theolympiashools.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Bản thân tôi là một giáo viên sở tại dạy học ở trường đã 30 năm. Nên tôi am hiểu về phong tục tập quán của học sinh cũng như những lỗi học sinh thường mắc phải khi học các môn học nhất là môn Tập đọc. Nhiều gia đình phụ huynh học sinh đã quan tâm nhiều hơn đến việc học hành của con em mình và mong muốn con em mình được đi học để sau này có một tương lai tốt đẹp hơn. * Khó khăn Năm học 2015 – 2016, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3A với tổng số 29 em, trong đó có 27 em là dân tộc Ê đê chiếm 98,1%. Một số em ở lại lớp nhiều năm, việc đọc, viết chưa thành thạo. Kết quả khảo sát đầu năm của môn Tiếng Việt là : TSHS HSDT 9 – 10 7 – 8 5 – 6 DƯỚI 5 29 27 SL % SL % SL % SL % 1 3,7 5 18,5 8 29,6 13 48,1 Khả năng học tiếng Việt của các em còn nhiều hạn chế. Đa số các em có kĩ năng đọc, viết, nghe – nói rất yếu. Nói và viết sai dấu thanh, cụ thể các tiếng có dấu thanh khi đọc và viết các em bỏ dấu đi, những tiếng không có dấu thanh khi đọc và viết lại thêm dấu vào ( ví dụ : hình dáng các em đọc là hinh dang hoặc nhà danh học kiệt xuất các em đọc là nha dành học kiết xuật, nói câu cụt không có chủ ngữ 2.2. Thành công – hạn chế * Thành công Sau khi thực hiện đề tài đã có dấu hiệu khả thi rõ rệt : khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt của các em được tốt hơn, các em có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết ít sai dấu hơn. * Hạn chế Tốn nhiều thời gian và đòi hỏi giáo viên phải công phu, kiên trì trong quá trình thực hiện. 2.3. Mặt mạnh – mặt yếu * Mặt mạnh Giúp giáo viên phát hiện những thiếu sót trong quá trình giảng dạy, kịp thời phát hiện những khó khăn, yếu kém trong học tập của các em. Được đồng nghiệp góp ý sửa chữa ngay những khiếm khuyết của mình, từ đó đưa ra cách thức cũng như phương pháp giảng dạy phù hợp. * Mặt yếu Đánh giá kết quả học tập của học sinh chỉ dựa vào kết quả của các tiết lên lớp sẽ không khách quan mà ta chưa xem xét đến các điều kiện cần thiết khác như các hoạt động ngoài giờ lên lớp, 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động đến đề tài Do đứng trước những thực trạng của lớp, của trường chất lượng học môn Tiếng Việt của học sinh quá thấp dẫn đến khả năng nhận biết trong giao tiếp, trong cuộc sống của phần lớn học sinh dân tộc thiểu số quá kém, bởi vậy tôi đã tìm ra một số biện pháp để dạy tăng cường tiếng Việt nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số (Ê đê) lớp 3 tại trường Tiểu học Võ Thị Sáu. Do giáo viên chưa năng động, chưa mạnh dạn linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo cơ hội cho các em được giao tiếp . 2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Muốn lồng ghép tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số (Ê đê) lớp 3 có hiệu quả giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ mục tiêu bài. Xem những nội dung nào quan trọng trong giờ dạy để từ đó lồng ghép tăng cường tiếng Việt để củng cố cho học sinh cách đọc – nói – nghe – viết cho chuẩn. Nên tập trung vào những tiếng, từ các em đọc, viết chưa chuẩn mà lồng ghép, tránh lồng ghép một cách tràn lan và không phù hợp. Giáo viên cũng cần chọn lọc cô đọng các tiếng, từ mà các em thường xuyên đọc, viết hay sai tiếng, dấu thanh, hạn chế tối đa các sai sót khi lồng ghép tăng cường tiếng Việt. Khi làm tốt điều này giáo viên sẽ thu về được một kết quả tốt, giúp các em tự tin, hòa đồng, cố gắng phấn đấu, nhất là tinh thần giúp đỡ nhau trong học tập. Các tiết dạy được lồng ghép tăng cường tiếng Việt các em hưởng ứng rất nhiệt tình, hứng thú và tiếp thu bài tốt, không khí lớp học sôi nổi, học sinh chủ động hợp tác. Kết quả học tập được nâng lên. Giáo viên chủ động tiếp xúc, gần gũi, thực sự yêu nghề, mến trẻ phải là một “Tấm gương sáng cho học sinh noi theo”, tôn trọng, đối xử công bằng với học sinh, tích cực đi thực tế gia đình học sinh để nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, điều kiện kinh tế, hoàn cảnh gia đình của từng học sinh nhiều hơn nữa thì hiệu quả rèn cho các em học tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ngày càng đạt kết quả cao hơn. Giáo viên phải luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học, dạy lồng ghép các hoạt động, các trò chơi bổ ích để gây hứng thú cho các em không chán nản trong học tập, tạo cho các em cảm giác “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Từ đó các em sẽ gây hứng thú trong học tập và thích đến trường, đến lớp để học tập. Trong quá trình giảng dạy hoặc tiếp xúc nói chuyện với học sinh, với đồng nghiệp, với tất cả mọi người cũng phải nói chuẩn tiếng Việt không được nói tiếng địa phương để các em bắt chước và học theo. Trong giờ dạy giáo viên phải quan tâm chú ý nhiều hơn đến học sinh đọc, viết sai chính tả (dấu thanh, các phụ âm đầu, các vần khó) để uốn nắn các em đọc, viết cho chính xác và chuẩn tiếng Việt. Bản thân phải theo học lớp dạy tiếng Ê đê để hiểu biết vốn ngôn ngữ, phong tục tập quán của người dân tộc địa phương nơi đang công tác, để phát huy hết khả năng của mình trong công tác giảng dạy. Đặc biệt cần quan tâm nhiều hơn đến đối tượng học sinh khó khăn trong học tập, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nhằm cảm hoá các em để các em coi thầy, cô giáo là chỗ dựa tinh thần và tạo được mối quan hệ tình cảm thầy – trò, làm cho các em thích đến trường hơn ở nhà thì các em sẽ đi học chuyên cần và tích cực học tập do đó giảm thiểu được tối đa các em phát âm sai (dấu thanh, các phụ âm đầu, các vần khó). 3. Giải pháp, biện pháp tiến hành 3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Nhằm nâng cao chất lượng học môn Tiếng Việt và sử dụng tiếng phổ thông vào trong cuộc sống hằng ngày. Giúp các em hòa nhập với cộng đồng. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tích hợp lẫn nhau, góp phần hình thành nên các kỹ năng Nghe – Nói – Đọc -Viết của môn Tiếng Việt. Vì vậy tôi đã vận dụng một số biện pháp sau nhằm nâng cao hiệu quả trong giảng dạy cho các em: Biện pháp 1: Thường xuyên tăng cường khả năng nghe và nói tiếng Việt cho học sinh thông qua dạy Tập đọc. Khó sửa nhất về kỹ năng nói của học sinh Ê đê là nói thừa hoặc thiếu dấu thanh dẫn đến đọc, nói sai tiếng, từ. Do vậy, khi giảng từ, giải nghĩa từ, hướng dẫn phát âm tôi hướng dẫn kỹ, phát âm mẫu nhiều lần, sửa sai cụ thể cho các em. Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc: “Mồ Côi xử kiện” tôi gọi một em đọc tốt đọc mẫu để cả lớp cùng được nghe sau đó yêu cầu các em phát hiện những tiếng, từ mà các em hay đọc và nói sai sau đó hướng dẫn phát âm đúng các từ đó. Ví dụ như từ : công đường, thản nhiên, bằng cách cho các em phân tích lại cấu tạo các tiếng, từ rồi gọi nhiều em đọc, em nào đọc chưa chuẩn tôi cho các em đọc lại từ đó nhiều lần, rồi tôi cùng sửa cho các em. Đối với em khó khăn về đọc, tôi hướng dẫn các em đánh vần sau đó đọc trơn lại và nhiều em được luyện đọc từ khó. Khi đọc đoạn, tôi lắng nghe phát hiện và sửa sai ngay những tiếng, từ các em còn đọc sai. Bên cạnh đó, tôi còn giúp các hiểu nghĩa của các từ ngữ trong phần chú giải và cung cấp thêm từ mới sau đó giải nghĩa để học sinh hiểu được nghĩa của từ “công đường”, ” bồi thường” và cho các em nhắc lại nghĩa của từ đó. Phần tìm hiểu bài, tôi đưa ra câu hỏi và yêu cầu các em suy nghĩ trả lời đầy đủ câu. Nếu em nào trả lời chưa đủ câu, tôi cho các em trả lời lại hay gọi em khác trả lời đầy đủ hơn và yêu cầu em đó nhắc lại câu trả lời của bạn. Cứ như thế một thời gian sau các em dần sửa được cách nói câu cụt. Trong giờ dạy, tôi chú ý tạo điều kiện cho tất cả các em đều được tham gia trả lời, giao tiếp tuỳ thuộc vào khả năng của từng đối tượng và dành nhiều thời gian tập và hướng dẫn thật kĩ nên hiệu quả nâng cao. Mặt khác, việc tập nói tiếng Việt cho học sinh phải được thực hiện dưới nhiều hình thức và phương pháp dạy học khác nhau như: dạy trong tiết dạy tăng cường tập nói tiếng Việt, dạy tích hợp vào các tiết học khác, thông qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp, thông qua trò chơi, nói chuyện…..với các phương pháp trực quan, phương pháp thực hành luyện tập theo mẫu, phương pháp giao tiếp, phương pháp đàm thoại. Việc phối hợp hệ thống các phương pháp dạy tập nói tiếng Việt giúp các em dễ hiểu dễ nhớ về nghĩa của từ thông qua các hình ảnh trực quan, nói đúng cấu trúc câu theo mẫu, hạn chế cách nói ngược theo tiếng địa phương. Tập cho học sinh khả năng diễn đạt theo tình huống, tự tin trong học tập, giao tiếp với bạn bè với thầy cô giáo bằng tiếng Việt. Tuy vậy, cần phải có sự linh hoạt sáng tạo, không rập khuôn máy móc, mà phải tuỳ theo từng mức độ của đối tượng để lựa chọn nội dung và phương pháp cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả theo các việc sau đây: Lựa chọn tiếng, từ để tập nói cho phù hợp. Luyện nói theo câu hỏi, câu trả lời có chứa các tiếng, từ mới cung cấp cho học sinh. Tạo tình huống cho học sinh đối thoại, được giao tiếp trong đó chú ý tạo môi trường giao tiếp học sinh với học sinh dưới sự hướng dẫn của tôi . Biện pháp 2: Rèn luyện kỹ năng viết (Chính tả – Tập làm văn) a. Viết đúng chính tả: Viết đúng chính tả bao gồm những nội dung sau: Viết đúng con chữ của Tiếng Việt. Viết đúng âm vần, ghép đúng các con chữ để tạo thành các tiếng đúng. Sử dụng đúng các dấu thanh. Biết cách trình bày một bài viết đẹp. Làm thế nào giúp các em viết đúng chính tả ? Đây là việc làm đòi hỏi tôi phải viết chữ đúng mẫu và đẹp, hiểu điều kiện, hoàn cảnh thực tiễn của học sinh, từ đó mới đề ra các biện pháp trong việc rèn luyện kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh. Vậy để học sinh viết đúng, đầu tiên tôi hướng dẫn tư thế ngồi học, ngồi viết, cách cầm phấn, cầm bút, cách để vở … cho toàn bộ học sinh một cách kỹ lưỡng với việc làm mẫu nhiều lần của tôi cũng như học sinh. Đồng thời phải thường xuyên uốn nắn giúp đỡ về tư thế ngồi học trong các tiết học khác để các em có thói quen ngồi học đúng tư thế. Tôi dạy thật kỹ, dạy nhiều lần, hướng dẫn làm mẫu nhiều lần các nét của con chữ như : nét khuyết, nét sổ thẳng, nét cong, nét móc, nét thắt….. Mặt khác, tôi giới thiệu chữ mẫu và hướng dẫn cách viết cụ thể về đặc điểm, cấu tạo của các chữ, giúp các em nhận ra sự giống và khác nhau về cấu tạo của các chữ. Từ những việc làm này đã giúp cho học sinh dễ nhận diện, dễ nhớ mặt chữ, hạn chế những sai sót trong khi viết chính tả. Bên cạnh đó việc sử dụng đúng các dấu thanh cũng không kém phần quan trọng nên khi hướng dẫn luyện tập nói, luyện đọc tôi chỉ rõ những sai sót khi các em đọc sai dấu, thừa, thiếu các dấu thanh và yêu cầu đọc lại cho đúng. Trước khi viết, tôi cho các em luyện viết và chữa kỹ những tiếng các em thường mắc lỗi về sử dụng dấu thanh để hạn chế những sai sót do nói thế nào viết thế vậy. VD: Quả chuối – quả chuôi; năm mới – năm mơi; phấp phới – phấp phơi; buổi tối – buôi tôi.. ( viết thiếu dấu sắc) Thanh điệu: thanh hỏi, thanh ngã VD: cửa sổ – cưa sô; vội vã – vôi va Tôi cho học sinh đọc nội dung đoạn viết sau đó cho các em tìm những tiếng, từ khó: chiều, lạc đường, nhòa, rưng rưng, rồi hướng dẫn phân tích cấu tạo ,.., đọc, viết các từ đó trên bảng lớp và giấy nháp ( viết cá nhân ). Sau đó sửa sai và viết mẫu cho các em quan sát. Trước khi cho các em viết vào vở, tôi hướng dẫn cách trình bày bài viết và yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết. Trong quá trình dạy học, tôi còn hướng dẫn thêm những quy tắc thông thường về viết chính tả như cách sử dụng dấu hỏi, ngã trong từ láy. Ngoài ra, tôi chọn nội dung phù hợp với thực tiễn các dạng bài tập như phân biệt giữa các vần an / anh, âng / ân, , các chữ có dấu hỏi / ngã, sắc / huyền, giúp cho các em hiểu nghĩa của từ một cách chắc chắn từ đó viết đúng chính tả. Một điều không kém phần quan trọng giúp cho học sinh viết đúng chính tả thì tôi phải phát âm chuẩn, đọc vừa đủ to, rõ. Đối với học sinh dân tộc thì phải chẻ nhỏ câu theo từ hoặc cụm từ để đọc tránh đọc cả câu dài, đồng thời phải đọc nhắc lại nhiều lần. Tuy vậy, việc đọc chính tả phải đảm bảo đúng quy định về cách đọc. Ví dụ: Đọc lần 1, lần 2 thì chẻ nhỏ theo từ, ngữ nhưng lần 3(có thể lần 4) thì phải đọc liền mạch ít nhất đến dấu phẩy. Nếu viết chính tả đối với bài thơ thì việc đọc theo từ, ngữ đều phải tuân thủ theo nhịp của bài thơ. Tóm lại muốn học sinh viết đúng, viết đẹp tôi phải biết tác động một cách toàn diện để giúp học sinh có được các kỹ năng nghe- nói- đọc- viết đúng tiếng Việt. Trước khi cho học sinh viết chính tả cần thực hiện các bước sau: Rèn cho học sinh đọc đoạn viết. Cho học sinh luyện đọc, luyện viết những tiếng, từ thường đọc, viết sai. Trước khi cho học sinh viết phải dặn dò tư thế ngồi viết, cách trình bày và các yêu cầu trong khi viết. Tôi đọc cho học sinh viết bài, đọc cho học sinh soát lỗi. Yêu cầu học sinh đổi chéo vở để soát lỗi, sửa lỗi cho nhau. b. Kỹ năng Tập làm văn: Kỹ năng Tâp làm văn của học sinh phụ thuộc vào những yếu tố sau: Khả năng viết đúng câu, liên kết câu văn, đoạn văn . Ví dụ: Đề bài: Nghe và kể lại câu chuyện Chàng trai làng Phù Ủng Với đề bài này học sinh phải xác định được: Thể loại: Nghe và kể lại câu chuyện. Theo yêu cầu của đề bài tôi phải kể câu chuyện trong tranh cho học sinh nghe và gọi vài em kể lại. Sau đó đòi hỏi học sinh quan sát tranh ảnh để sử dụng từ phù hợp với trình tự tả theo câu hỏi gợi ý. Tôi đưa ra một hệ thống câu hỏi gợi ý, gợi mở giúp các em hình dung, tái tạo những điều mà các em đã quan sát qua tranh, ảnh từ đó viết được câu văn có nghĩa, Ví dụ : Chàng trai ngồi bên vệ đường làm gì ? HS trả lời: Đang đan sọt. Vì sao quân lính đâm giáo vào đùi chàng trai ? (Vì mải đan sọt và suy nghĩ việc nước không biết nhà vua đi qua.) Vì sao Trần Hưng Đạo đưa chàng trai về kinh đô ? (Vì thấy chàng trai có long yêu nước tha thiết) Tình cảm của em đối với Trần Hưng Đạo như thế nào ? ( Em rất kính phục Trần Hưng Đạo vì là một vị vua tốt có lòng yêu nước thương dân và trọng người tài) Khả năng viết văn của các em hiện nay còn hạn chế bởi vì vốn hiểu biết của các em còn hạn hẹp. Câu văn còn cụt, chưa có hình ảnh. Cách diễn đạt chủ yếu mang tính liệt kê. Các tiết luyện nói hầu hết các em chưa phát huy được khả năng của mình còn bắt chước vào việc làm mẫu của bạn và của cô. Chính vì vậy mà không phát huy khả năng sáng tạo, tiếp thu bài thụ động chỉ nói lại lời của giáo viên. Vậy làm thế nào để hạn chế điều đó ? Tôi đã dạy kỹ tập cho học sinh chủ động tìm câu từ để trả lời câu hỏi. Đối với những câu hỏi dài, tôi phải chẻ nhỏ để cho học sinh dễ trả lời, đặc biệt là tạo cơ hội để học sinh khó khăn về học tập tham gia phát biểu, hướng dẫn kĩ, cụ thể hơn, chi tiết hơn, mở rộng các cách diễn đạt khác nhau của cùng một nội dung để các học sinh khác nhau có cách diễn đạt khác nhau. Tôi không làm bài mẫu mà để học sinh tự viết, sau đó chữa lỗi kỹ cho học sinh từ bố cục đến cách dùng từ, đặt câu và nội dung còn mắc phải của bài văn. Sau khi chữa xong tôi yêu cầu học sinh viết lại . Với cách làm như trên, sau một thời gian học sinh đã phát huy tính tự lập, khả năng sử dụng từ ngữ, đặt câu, diễn đạt của học sinh sẽ có tiến bộ nhất định, hạn chế dần sự phụ thuộc vào lời văn của người khác. Biện pháp 3: Tăng cường Luyện từ và câu Luyện từ và câu là một phân môn của môn Tiếng Việt. Luyện từ và câu giúp cho học sinh: Cung cấp cho học sinh những kiến thức về cấu trúc của câu từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời rèn cho các em có thói quen và kỹ năng viết đúng cấu trúc ngữ pháp. Bước đầu giúp học sinh hiểu biết về khái niệm, tác dụng của những từ loại cơ bản nhất của Tiếng Việt . Việc hướng dẫn, cung cấp từ mới cho học sinh được thực hiện từ dễ đến khó, từ những sự vật, sự việc gần gũi diễn ra xung quanh các em đến những sự vật hiện tượng xa các em. Do vậy, để việc cung cấp từ mới của tiếng Việt cho học sinh dân tộc có hiệu quả tôi đã kết hợp tốt với việc luyện nói cho học sinh. Bao gồm từ việc phát âm mẫu đến giải nghĩa, đặc biệt là tạo tình huống trả lời các câu hỏi, tình huống giao tiếp có các từ mới. Tăng cường luyện và rèn khả năng đặt câu với từ mới song song với việc sửa sai trong dùng từ đặt câu cho học sinh. Một điểm cần quan tâm là năng lực tư duy tiếng Việt của học sinh còn hạn chế, bởi vậy để cho học sinh dễ nhớ thì giáo viên phải chủ động chuẩn bị đồ dùng dạy học trực quan như tranh ảnh, mẫu vật thật phục vụ cho việc cung cấp và giải nghĩa từ mới cho học sinh. Mặt khác, tôi cũng phải có hiểu biết nhất định về tiếng Ê – đê để hỗ trợ việc giải nghĩa từ của giáo viên khi cần thiết. Ví dụ: Khi dạy bài tập 2, bài tập 3 tiết 8 “Mở rộng vốn từ cộng đồng. Ôn tập câu Ai làm gì? ” trang 65 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3, tập 1. Tôi tổ chức cho các em xác định yêu cầu đề bài sau đó hướng dần học sinh làm bài: Bài tập 2: Giải thích từ “cật” trong câu “Chung lưng đấu cật”: lưng, phần lưng ở chỗ ngang bụng (Bụng đói cật rét) – ý nói sự đoàn kết, góp sức cùng nhau làm việc . Bài tập 3: Tìm các bộ phận của câu: + Gạch 1 gạch dưới bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai (cái gì, con gì)? + Gạch 2 gạch dưới bộ phận trả lời cho câu hỏi làm gì? Đàn sếu đang sải cánh trên cao. Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Các em tới chỗ ông cụ lễ phép hỏi. Hoặc do vốn tiếng Việt còn hạn chế nên học sinh thường mắc một số lỗi câu như: dùng từ không đúng, từ xưng hô không phù hợp do không hiểu nghĩa của từ. Học sinh thường nói trống không, nói câu không có chủ ngữ câu không đầy đủ, câu không đúng trật tự …. Để khắc phục những lỗi trên tôi cung cấp cho học sinh một số đặc điểm về cấu tạo từ, hệ thống từ xưng hô Tôi chọn một số mẫu câu chuẩn cho học sinh luyện tập nói theo mẫu câu chuẩn. Có thể tổ chức cho học sinh luyện nói theo trình tự : Tôi nêu tình huống câu cần nói: Ví dụ: Khi gia đình có khách đến thăm và cho em quà em cần phải làm gì? Tôi giới thiệu câu – nói mẫu lần 1 Ví dụ: – Cháu chào bác ạ ! – Cháu xin. Cháu cảm ơn Bác! Tôi nói mẫu lần 2 –
Một Số Biện Pháp Tăng Cường Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc
Học sinh là người dân tộc thiểu số vốn dĩ rất nhút nhát, ngại giao tiếp với bạn bè người Kinh và thầy cô giáo. Nhiều em khi thầy cô gọi đứng dậy trả lời chỉ đứng và im lặng vì hoặc là không hiểu được câu hỏi hoặc là không tự tin với những câu trả lời bằng tiếng phổ thông của mình do vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế. Trong khi chương trình sách giáo khoa quá tải, chưa thật sự phù hợp với học sinh dân tộc thiểu số; giáo viên thì ôm đồm, “tham”, chạy đua với thời gian, tìm mọi cách để làm sao truyền đạt, chuyển tải hết những kiến thức trong sách giáo khoa trong thời gian của 1 tiết học. Do đó tiết học thường rơi vào tình trạng hối hả nhưng trầm lặng, nặng nề, khô khan và thường diễn ra theo hướng một chiều. Vì vậy, muốn tiết dạy đạt hiệu quả cần tạo ra một không khí thật nhẹ nhàng, hấp dẫn. Đây là giải pháp đặc trưng trong quá trình giảng dạy đối với học sinh dân tộc thiểu số ở tất cả các Bậc học đặc biệt là bậc Mầm non.
Hiểu được tâm lý của học sinh dân tộc thiểu số, trường tiểu mẫu giáo Hoa Tang Bi đã có những chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh và nhiều giáo viên ở trường mẫu giáo Hoa Tang Bi đã áp dụng những phương pháp phù hợp tùy theo các môn học nhưng đều chú trọng đến những yếu tố vừa truyền đạt kiến thức của bài học đồng thời tăng cường tiếng Việt bằng những trò chơi ở tất cả các môn học (chủ yếu là các trò chơi về ngôn ngữ, trò chơi trí tuệ sử dụng ngôn ngữ) như: Đọc thơ luyện phát âm cho trẻ…
* Tạo điều kiện bồi dưỡng cho giáo viên học tiếng Êđê
Cán bô, giáo viên, nhân viên trong nhà trường có rất nhiều thuận lợi để học tiếng Êđê để phục vụ cho việc giao tiếp với trẻ, vì ở trường chiếm 50% là giáo viên người Êđê, tiếp xúc và trao đổi những câu từ đơn giản và thông dụng nhất, nhà trường cũng tạo điều kiện và khuyên khích chị em đi học lớp học tiếng Êđê và tìm hiểu thêm về bản sắc và phong tục tập quán của người Êđê.
* Kết hợp với hội cha mẹ học sinh là người Êđê
Nhà trường và Ban chấp hành hội phụ huynh cùng nhau kết hợp để tham gia tổ chức các phong trào của nhà trường cũng như của ngành đưa ra. Tổ chức giao lưu văn nghệ giữa các khối lớp với nhau, tổ chức các ngày lễ hội như ngày 8/3, Gia đình dinh dưỡng trẻ thơ…để có dịp giao tiếp giữa cô trò và cả phụ huynh gần gũi thân mật, tự tin hơn.
* Kết hợp với Ban tự quản thôn, Buôn, tổ dân phố
Ban giám hiệu nhà trường cùng kết hợp với Ban tự quản, thôn, Buôn, tổ dân phố tổ chức họp dân trong Buôn để tuyên truyền rộng rãi các mặt hoạt động tổ chức của nhà trường và có ích cho nhân dân, như đưa con em đi học đầy đủ khi đến tuổi đi học, để trẻ nhanh tiếp xúc và giao tiếp với bạn bè ở trường bằng tiếng phổ thông, trẻ được học, được chơi sạch sẽ. Tham gia đầy đủ các phong trào của trường tổ chức cũng như của thôn, Buôn tổ chức.
Thời gian hè đề nghị đoàn thanh niên của Buôn phải tổ chức những trò chơi có ích cho trẻ, được giao lưu học hỏi từ bạn bè, giao tiếp với bạn bè bằng tiếng phổ thông. Tạo sự mạnh dạn cho trẻ khi đi học tốt hơn, trẻ sẽ không bị nhút nhát hoặc kì thị phân biệt ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ.
Tăng Cường Dạy Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số Đầu Cấp Tiểu Học
Đến thăm một lớp học chuẩn bị cho HS bước vào lớp 1 tại Trường TH Phước Thắng, chúng tôi cảm nhận được sự vất vả của các cô giáo nơi đây. Đa số HS là con em đồng bào Raglai với khả năng giao tiếp bằng tiếng Việt rất hạn chế, vì ngay từ nhỏ các em đều giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, môi trường giao tiếp tiếng Việt cũng không nhiều. Do đó, các cháu rất khó khăn trong giao tiếp với giáo viên và hạn chế trong tiếp thu kiến thức. Thầy giáo Phan Ngọc Còi, Hiệu trưởng nhà trường cho biết: Đối với các em qua lớp mẫu giáo thì đã nghe, nói và hiểu tiếng Việt cơ bản nên kỹ năng sử dụng tiếng Việt khi vào lớp 1 sẽ dễ dàng hơn. Còn đối với các em chưa qua lớp mẫu giáo thì rất khó khăn trong tiếp thu bài học, nhiều em không hiểu hết lời của giáo viên, ngại giao tiếp, chính vì thế đòi hỏi sự kiên trì của giáo viên. Nhà trường cũng chỉ đạo giáo viên tăng cường tổ chức các hoạt động dạy tiếng Việt qua các trò chơi, giao lưu văn nghệ và dùng các tài liệu, đồ dùng dạy học trực quan để giúp các em tự tin hơn trong việc sử dụng tiếng Việt.
Giáo viên Trường Tiểu học Phước Đại A dạy tiếng Việt cho HS chuẩn bị bước vào lớp 1.
Tương tự, tại Trường TH Phước Đại A, việc dạy tiếng Việt cho HS chuẩn bị bước vào lớp 1 cũng đang được triển khai tích cực. Cô giáo Nguyễn Thị Kim Uyên, Hiệu trưởng nhà trường, chia sẻ: Đối với HS DTTS khi học tiếng Việt, các em thường dùng tiếng mẹ đẻ xen vào. Do môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt bị hạn hẹp chính là rào cản lớn nhất để rèn kỹ năng sử dụng tiếng Việt của HS DTTS. Nhà trường đã chỉ đạo giáo viên tăng cường dạy tiếng Việt với nhiều hình thức phong phú, phù hợp như các kỹ năng giao tiếp, ứng xử… Trong quá trình dạy chú ý đến việc phân loại khả năng tiếng Việt của từng em để có phương pháp, nội dung dạy tiếng Việt cho phù hợp.
Bác Ái là huyện miền núi đặc biệt khó khăn, với trên 90% là đồng bào DTTS; toàn huyện có 11 trường mẫu giáo, 16 trường TH và 9 trường THCS. Những năm qua, kinh phí và nguồn lực hỗ trợ cho các hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ em DTTS còn eo hẹp; chưa có chế độ, chính sách cho giáo viên dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ em DTTS trước khi vào lớp 1 trong hè.
HS tiểu học, nhất là các lớp đầu cấp do không biết hoặc biết rất ít tiếng Việt nên gặp rất nhiều khó khăn trong học tập, đặc biệt là những trẻ không qua lớp Mẫu giáo. Do không biết tiếng Việt nên những HS này còn khó khăn trong giao tiếp, thiếu mạnh dạn trong các hoạt động, hạn chế trong tiếp thu kiến thức. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều HS DTTS lưu ban, bỏ học ở cấp TH.
Ông Đặng Ngọc Hải, Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Bác Ái cho biết: Với học sinh người DTTS, khi đến trường các em phải làm quen với một ngôn ngữ khác hoàn toàn tiếng mẹ đẻ nên trong quá trình học tập cũng bị ảnh hưởng không ít. Để trang bị tiếng Việt cho HS DTTS bước vào lớp 1, trong năm học mới này, Phòng đã chỉ đạo các trường khắc phục những hạn chế từ các năm học trước, xác định được vấn đề trọng tâm, lựa chọn các nội dung, kiến thức dạy tiếng Việt phù hợp để các em bước vào năm học mới khỏi bỡ ngỡ; có phương pháp rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt cho các em, qua đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng dạy và học.
Thế Quang
Yên Bái Tăng Cường Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số
YênBái – Yên Bái là một tỉnh miền núi với 30 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm hơn 56% dân số toàn tỉnh. Những năm qua, ngành giáo dục – đào tạo (GD-ĐT) Yên Bái đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường tiếng Việt cho học sinh mầm non, tiểu học, nổi bật là Đề án Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng DTTS, giai đoạn 2016 – 2020.
Đề án Tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học vùng DTTS giai đoạn 2016 – 2020 được xem là giải pháp mang tính then chốt đối với giáo dục vùng DTTS, quyết định tới chất lượng giáo dục.
Vì vậy, trong những năm qua, ngành GD-ĐT Yên Bái đặc biệt quan tâm chỉ đạo các phòng GD-ĐT huyện, thị, thành phố xây dựng kế hoạch triển khai với các giải pháp cụ thể, phù hợp với tình hình thực tế tại từng đơn vị trường học, xây dựng các mô hình điểm, huy động tối đa trẻ 3 và 4 tuổi ra lớp.
Bên cạnh việc hỗ trợ các trang thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi, học liệu cho các nhóm, lớp, điểm trường mầm non, tiểu học ở các xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn có học sinh người DTTS, ngành đã phát động phong trào tự làm đồ dùng, đồ chơi tại các đơn vị, khuyến khích sử dụng các nguyên vật liệu sẵn có của địa phương, khai thác văn hóa bản địa vào xây dựng môi trường, góc địa phương để tăng cường tiếng Việt cho học sinh.
Các cơ sở giáo dục mầm non, trường tiểu học đã phối hợp với phụ huynh học sinh, già làng, trưởng bản biên tập cuốn sổ tay từ vựng của dân tộc Dao và dân tộc Mông dịch ra tiếng Việt giúp giáo viên có tài liệu học tiếng địa phương; phối hợp sưu tầm các bài hát, câu chuyện, trò chơi truyền thống của người bản địa, biên tập thành tuyển tập thơ, truyện, trò chơi, câu đố để trang bị thêm tài liệu giảng dạy cho giáo viên; sưu tầm các đồ dùng, đồ chơi, vật dụng quen thuộc trong sinh hoạt hàng ngày của người DTTS sử dụng trong góc địa phương, thư viện của nhà trường để tổ chức thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh.
100% cơ sở giáo dục mầm non xây dựng góc thư viện, chợ quê trong trường học; xây dựng môi trường “chữ viết”, góc tiếng Việt trong các nhóm, lớp; bổ sung các học liệu phù hợp để hỗ trợ học sinh phát triển ngôn ngữ gắn với bản sắc văn hóa địa phương; phát động phong trào làm đồ dùng đồ chơi tự tạo trong các nhà trường. Tổ chức các hội thi: “Xây dựng trường mầm non xanh, sạch, đẹp, an toàn và thân thiện”, “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non” các cấp; tổ chức hội thảo chuyên đề “Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm”, hội thảo “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng DTTS”…
Qua đó, các đơn vị được giao lưu học tập, trao đổi kinh nghiệm trong quá trình xây dựng môi trường, tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ mầm non nói chung và tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng DTTS nói riêng. Nhiều đơn vị nhà trường đã vận động cha mẹ học sinh/ người bản địa tham gia làm trợ giảng ngôn ngữ trong tổ chức các hoạt động tăng cường tiếng Việt cho trẻ vùng DTTS (Trường Mầm non Suối Giàng, Trường Mầm non Sùng Đô, huyện Văn Chấn).
Mặt khác, để nâng cao năng lực đội ngũ, ngành đã tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ quản lý, giáo viên vùng DTTS về công tác quản lý, phương pháp, kỹ năng tổ chức các hoạt động giáo dục để tăng cường tiếng Việt phù hợp với từng đối tượng học sinh, phù hợp với chương trình giáo dục phổ thông 2018…
Với những giải pháp đồng bộ, phù hợp, Đề án đã mang lại hiệu quả rõ rệt, 100% học sinh người DTTS đến trường được tăng cường tiếng Việt đúng độ tuổi, tỷ lệ huy động học sinh ra lớp đạt cao. Từ đó, chất lượng giáo dục vùng DTTS được nâng lên, nhiều em đạt giải cao trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi các cấp.
Thanh Vy
Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Tài Một Số Biện Pháp Dạy Tăng Cường Tiếng Việt Trong Môn Tiếng Việt Cho Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số Lớp 3 Trường Tiểu Học Võ Thị Sáu trên website Theolympiashools.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!