Bạn đang xem bài viết Chàng Trai Đồng Bào Dân Tộc Thái Nghệ An Lọt Vào Chung Kết Sao Mai 2022 được cập nhật mới nhất trên website Theolympiashools.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
(Baonghean.vn) – Sau khi xuất sắc vượt qua nhiều thí sinh, tại vòng chung kết Sao Mai khu vực miền Bắc, chàng trai dân tộc Thái La Hoàng Quý (1994) ở bản Xiêng Hương, xã Xá Lượng (Tương Dương) đã lọt vào vòng chung kết Liên hoan Tiếng hát truyền hình – Giải Sao Mai năm 2019. Sự kiện này đã làm nức lòng người dân trong và ngoài bản nơi Quý sinh sống.
Niềm vui nơi bản xaKhi hay tin người con của bản Thái, La Hoàng Quý đã xuất sắc lọt vào vòng chung kết Liên hoan Tiếng hát truyền hình – Giải Sao Mai năm 2019 và Quý chính là thí sinh duy nhất của tỉnh Nghệ An lọt vào vòng thi cuối cùng này, niềm vui lại càng nâng lên gấp bội.
Những ngày này, ngôi nhà nhỏ của gia đình La Hoàng Quý ở bản Xiêng Hương ngày nào cũng luôn đầy ắp niềm vui và tiếng cười của người thân, anh em, người dân trong, ngoài bản đến chia vui, chúc mừng gia đình.
Những ngày này ngôi nhà nhỏ của gia đình La Hoàng Quý, ở bản Xiêng Hương, xã Xá Lượng (Tương Dương) lúc nào cũng đông vui, vì người dân trong, ngoài bản đến chúc mừng gia đình. Ảnh: Đình Tuân
Chị Kha Thị Phương, ở cạnh nhà Quý cho biết: Quý hiền lành, lại ngoan nên ai cũng quý. Khi hay tin không chỉ người trong bản mà ở ngoài bản cũng đến chúc mừng cháu Quý và gia đình. Sinh ra trong gia đình nghèo nhưng Quý đạt được thành tích đó ngoài sự tưởng tượng của nhiều người.
Bà Lương Thị Phao, bà nội Quý năm nay 80 tuổi kể lại: “Nếu như không nhầm thì hôm đó là ngày 23/2, Quý có điện thoại về cho tôi và bảo cháu đã lọt vào vòng thi chung kết toàn quốc. Đúng là trời đã không phụ sự nỗ lực phấn đấu của cháu tôi”.
Ông La Văn May và bà Kha Thị Xuân (bố và mẹ của Quý) không giấu nổi niềm vui rạng rỡ trên khuôn mặt. Bà Kha Thị Xuân chia sẻ: “Từ khi nghe tin Quý được lọt vào chung kết toàn quốc, ngày nào cũng có bà con trong bản đến chung vui và chúc mừng.
Tuy điều kiện kinh tế gia đình còn khó khăn, nhưng ngày 24/3 tới đây sẽ khai mạc vòng thi chung kết, nếu sức khỏe đảm bảo tôi sẽ tham gia để động viên cháu. Toàn quốc chỉ có 15 thí sinh, trong đó có con trai tôi, dù được giải hay không được giải, gia đình tôi vẫn tự hào về con lắm”.
Bà Kha Thị Xuân – mẹ của La Hoàng Quý nấu nồi nước để mời khách đến chung vui với gia đình. Ảnh: Đình Tuân
Nói về mình, La Hoàng Quý cho biết: “Em là người dân tộc Thái, gia đình lại nghèo, so với các thí sinh khác em phải nỗ lực cố gắng hơn rất nhiều trong tập luyện, thể hiện hết khả năng của mình tại vòng chung kết toàn quốc, đền đáp tình cảm mà gia đình, hàng xóm đã dành tặng.”
Việc La Hoàng Quý lọt vào Vòng Chung kết Liên hoan Tiếng hát truyền hình – Giải Sao Mai năm 2019 không chỉ là niềm tự hào của gia đình, niềm vinh dự của quê hương, mà chính sự nỗ lực vượt khó của Quý là tấm gương để giới trẻ nơi bản nghèo Xiêng Hương học tập.
Viết tiếp ước mơ
La Hoàng Quý thể hiện ca khúc “Mỗi bước ta đi thêm yêu Tổ quốc” của Ns.Hoàng Vân tại vòng chung kết khu vực phía Bắc. Ảnh: NVCC
La Hoàng Quý sinh ra trong một gia đình có 4 chị em. Bố mẹ là nông dân, quanh năm chân lấm tay bùn để nuôi con ăn học. Cuộc sống gia đình vất vả hơn khi năm 2005, bố Quý bị tai nạn nặng, mọi chi phí dồn hết cho việc chữa trị.
Lúc đó điều kiện gia đình rất khó khăn, Quý đã nghĩ tới bỏ học để bố mẹ đỡ phần gánh nặng, nhưng rồi được bố mẹ động viên: Bản thân bố mẹ đã là những người thiệt thòi vì ngày xưa không được học hành đến nơi đến chốn nên em đã tiếp tục tới trường để viết tiếp ước mơ.
Năm 2010, Quý thi đỗ Trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh Nghệ An, nhưng nghĩ chị gái đi học xa nhà, em trai đang nhỏ, để phụ giúp công việc nhà và đỡ phần vất vả cho bố mẹ, Quý đã đăng ký học tại Trường THPT DTNT Tương Dương 1.
Tốt nghiệp THPT, Quý làm hồ sơ thi duy nhất một trường đó là Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội. Với năng khiếu có sẵn, Quý đã trúng tuyển vào Khoa Thanh nhạc của trường với số điểm khá cao.
Gia đình khó khăn nên Quý phải vừa học, vừa đi làm thêm tại các quán cà phê, nhà hàng để trang trải cuộc sống trong những ngày theo học tại Thủ đô. Đến năm thứ 2, được người bạn giới thiệu đến một quán bar để thử giọng và được nhận vào hát ngay sau đó.
La Hoàng Quý là niềm tự hào của người dân Tương Dương. Ảnh: NVCC
Năm 2013, Quý đạt giải Ba tiếng hát học sinh sinh viên tại Hà Nội. Năm 2015, Quý đạt giải Ba Liên hoan Tiếng hát truyền hình Nghệ An – Giải Sao Mai.
Không dừng lại ở đó, Quý đã tiếp tục dự thi và trúng tuyển vào Trường Đại học VHNT Quân đội.
Hành trình rất đỗi nhọc nhằn nhưng cũng nhiều trái ngọt là kết quả xứng đáng cho nghị lực của một chàng trai đồng bào dân tộc giàu tài năng. Chúc Quý nhiều may mắn, phát huy tài năng của mình trên sân khấu chung kết Sao Mai tới đây và chặng đường nghệ thuật trong tương lai.
La Hoàng Quý tại đêm chung kết khu vực Miền Bắc. Ảnh: NVCC
Năm 2013, Quý đạt giải Ba Tiếng hát học sinh sinh viên tại Hà Nội. Năm 2015, Quý đạt giải Ba Liên hoan Tiếng hát truyền hình Nghệ An – Giải Sao Mai.
Năm 2017, đạt giải Ba giọng ca xứ Nghệ do Đài PT-TH Nghệ An tổ chức.
Tại đêm chung kết Sao Mai 2019, Quý đã xuất sắc vượt qua hơn 300 thí sinh để giành giải Nhì dòng nhạc thính phòng và lọt vào vòng chung kết Sao Mai khu vực miền Bắc.
Đình Tuân
Dạy Tiếng Khmer Cho Học Sinh Đồng Bào Dân Tộc
Trong những năm qua, việc vận động học sinh đồng bào dân tộc ra lớp được xem là nhiệm vụ quan trọng của việc giáo dục ngôn ngữ, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc. Thầy Trần Văn Khỏe, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Võ Thị Sáu, thành phố Vị Thanh, cho biết: “Những năm trước, trường rất khó trong việc vận động và duy trì học sinh đồng bào dân tộc ra lớp, do phụ huynh các em chủ yếu làm thuê nên vào dịp hè, nhiều em phải theo gia đình đi làm ăn ở xa, đến lúc nhập học, các em thường không về kịp. Đặc biệt, một số bé gái khi học khoảng lớp 4, 5 là gia đình bắt phải nghỉ học ở nhà giữ em, phụ giúp gia đình nên trường cũng rất khó trong công tác vận động. Những lúc đó, trường đã tích cực xuống tận nhà để giải thích ý nghĩa việc học của các cháu để phụ huynh hiểu, nên các năm gần đây không còn tình trạng học sinh bỏ học nữa”.
Tiết học tiếng dân tộc của học sinh Trường Tiểu học Lương Nghĩa 3.
Vận động học sinh ra lớp đã khó, để các em hứng thú và học tập ngày càng tốt hơn là việc càng khó hơn. Hiểu được điều đó, hàng năm, các trường thường xuyên hỗ trợ cho các em học sinh đồng bào dân tộc như: tập, viết, gạo… Em Sa May, học sinh lớp 3, Trường Tiểu học Võ Thị Sáu, cho biết: “Trước đây, em chỉ có thể nói được tiếng Khmer chứ không biết đọc hay viết. Nhưng từ khi được đi học đến nay, em đã biết được phụ âm, nguyên âm, biết ghép vần. Em sẽ cố gắng học thật giỏi để sau này thành giáo viên mang chữ viết, tiếng nói về cho dân tộc mình”. Thầy Sơn Rích, giáo viên dạy tiếng dân tộc, Trường Tiểu học Võ Thị Sáu, Tổ trưởng Tổ bộ môn Khmer, Phòng GD&ĐT thành phố Vị Thanh, cho biết: “Chương trình dạy tiếng Khmer được áp dụng giảng dạy cho học sinh từ lớp 2 đến lớp 5 và thực hiện dạy 4 tiết/tuần. Đối với giáo viên dạy tiếng dân tộc phải đạt chuẩn về trình độ đào tạo và có chứng chỉ dạy tiếng dân tộc theo quy định của Bộ GD&ĐT. Hàng năm, tôi thường xuyên được cử đi tập huấn ở các tỉnh như: Sóc Trăng, Trà Vinh… để nâng cao kiến thức, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy. Theo tôi, trong chương trình dạy tiếng Khmer cho học sinh hiện nay, do chưa có mẫu chữ, các chữ viết hoa rất khó viết và sách giáo khoa chưa có nhiều, nên đây là khó khăn nhất đối với giáo viên dạy tiếng dân tộc hiện nay”.
Dạy tiếng Khmer ở cấp tiểu học là quá trình dạy cho các em về ngôn ngữ giao tiếp lấy hoạt động của học sinh làm trung tâm trong quá trình dạy và học. Thầy Danh Sóc Kha, giáo viên dạy tiếng dân tộc, Trường Tiểu học Lương Nghĩa 3, huyện Long Mỹ, cho biết: “Tôi thấy việc đưa vào giảng dạy tiếng Khmer cho học sinh người đồng bào dân tộc rất thiết thực. Đây là môn học giúp cho các em hình thành và phát triển kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp kiến thức cơ bản, cần thiết về ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ pháp tiếng dân tộc. Đặc biệt, qua đây còn giúp các em bồi dưỡng tình yêu tiếng mẹ đẻ, góp phần bảo tồn, phát huy những phong tục tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình…”. Hiện tại, trường có 11/19 lớp và 4 giáo viên dạy tiếng dân tộc, trong đó có hơn 52% học sinh của trường là người dân tộc.
Nhờ sự quan tâm của Chính phủ, UBND tỉnh, mà trong những năm qua, ngành GD&ĐT tỉnh Hậu Giang đã từng bước khắc phục khó khăn trong công tác dạy và học tiếng Khmer cho học sinh đồng bào dân tộc. Vì vậy, năm học 2014-2015 vừa qua, Sở GD&ĐT tỉnh đã vinh dự nhận được bằng khen của Bộ GD&ĐT về hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục dân tộc. Thầy Phạm Minh Cường, Phó Trưởng phòng Giáo dục Tiểu học, Sở GD&ĐT tỉnh Hậu Giang, cho biết: “Trong những năm qua, việc dạy và học tiếng Khmer cho học sinh tiểu học luôn được cấp ủy, chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm. Ở một số trường hiện nay đang thiếu giáo viên dạy tiếng dân tộc nên trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục liên hệ với các sở, ban, ngành xin tuyển thêm biên chế để xây dựng đội ngũ giáo viên. Bên cạnh đó cũng sẽ tiếp tục tiến hành bồi dưỡng, tổ chức cho giáo viên dạy tiếng dân tộc đi tham dự tập huấn để nắm vững mục tiêu, định hướng, phương pháp giảng dạy phù hợp, nhằm đáp ứng tốt cho nhu cầu dạy và học”.
Hiện nay, toàn tỉnh Hậu Giang có 13/169 trường tiểu học dạy tiếng dân tộc với hơn 2.700 học sinh người dân tộc đang theo học. Việc dạy và học tiếng Khmer cho học sinh không những cung cấp tri thức, mà còn góp phần bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer Nam bộ.
Học Tiếng Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Để Gần Dân, Hiểu Dân Hơn
Biên phòng – Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách trong bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia đoạn đi qua tỉnh Thừa Thiên Huế, từ lâu, BĐBP tỉnh Thừa Thiên Huế đã xây dựng được mối đoàn kết gắn bó mật thiết với đồng bào các dân tộc ở huyện biên giới A Lưới. Để đạt được mục tiêu đặt ra cho cán bộ BĐBP tỉnh công tác trên địa bàn này là phải “hiểu được đồng bào nói, nói cho đồng bào hiểu, làm cho đồng bào tin”, trong nhiều năm qua, BĐBP tỉnh đã chủ động tổ chức mở nhiều lớp học tiếng dân tộc thiểu số Pa Cô, Tà Ôi cho cán bộ Biên phòng đang công tác trên tuyến biên giới A Lưới. Đây là một việc làm thiết thực nhằm vừa phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của BĐBP tỉnh, vừa đáp ứng yêu cầu xây dựng địa bàn biên giới vững mạnh.
Đại tá Lê Văn Nguyên, Chính ủy BĐBP Thừa Thiên Huế trao giấy chứng nhận cho các học viên lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc thiểu số năm 2019. Ảnh: Mai Trí
Đại tá Lê Văn Nguyên, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy BĐBP tỉnh cho biết: “Việc tổ chức học tiếng dân tộc thiểu số nhằm đảm bảo cho cán bộ Biên phòng phải giao tiếp được với đồng bào bản địa bằng chính ngôn ngữ của họ, hướng đến mục tiêu có thể giao tiếp thành thạo để phục vụ tốt hơn cho công tác bảo vệ biên giới. Đồng thời, thông qua các lớp học này nhằm giúp BĐBP tỉnh nắm được phong tục tập quán, những nét văn hóa truyền thống cần phát huy và những tập tục lạc hậu cần loại bỏ của các dân tộc thiểu số nơi địa bàn mình công tác”.
Nói về việc tổ chức học tiếng dân tộc thiểu số của BĐBP tỉnh, đồng chí Nguyễn Thị Sửu, Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy A Lưới (là người đồng bào thiểu số bản địa) chia sẻ: “A Lưới là huyện biên giới duy nhất và cũng khó khăn nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về quốc phòng, an ninh và môi trường sinh thái. Trong đó, địa bàn hoạt động của các đồn Biên phòng ở huyện A Lưới gồm 12 xã biên giới, có 4 đồn Biên phòng đóng quân; đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 77,5% gồm các dân tộc Pa Cô, Tà Ôi, Ka Tu, Pa Hy, Vân Kiều và một số dân tộc ít người khác di cư đến. Việc BĐBP tổ chức mở được nhiều lớp học tiếng dân tộc thiểu số vừa mang ý nghĩa chính trị, vừa thể hiện tình cảm gắn bó của BĐBP đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn”.
Qua tìm hiểu, chúng tôi được biết, các lớp học tiếng đồng bào dân tộc thiểu số do BĐBP Thừa Thiên Huế tổ chức được triển khai ngay tại doanh trại các đơn vị vào các ngày nghỉ, giờ nghỉ. Các đồn Biên phòng cử những cán bộ là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp có thời gian công tác lâu năm tại đơn vị, gắn bó nhiều năm ở địa bàn, thành thạo ngôn ngữ của các tộc người bản địa làm giáo viên lên lớp.
Trung tá Hồ Văn Hiệp, Chính trị viên Đồn Biên phòng Hồng Vân (người dân tộc Pa Cô) là một trong những đồng chí đã có nhiều năm làm giáo viên trực tiếp đứng lớp, cho rằng: “Để khắc phục khó khăn, bỡ ngỡ ban đầu, chúng tôi đã phải dày công nghiên cứu tìm chọn những nội dung, từ ngữ cần thiết, thông dụng nhất để truyền đạt. Phương châm thực hiện của chúng tôi là người biết hướng dẫn cho người chưa biết, người biết nhiều trao đổi với người biết ít và người biết ít nói lại với người chưa biết. Ngoài việc học tập trung tại đơn vị, chúng tôi yêu cầu học viên những lúc xuống địa bàn hoạt động, đi họp, hay tham gia lao động, giao lưu, tuyên truyền, vận động quần chúng phải tranh thủ tiếp xúc với bà con để nâng cao khả năng giao tiếp và vốn từ vựng của ngôn ngữ các dân tộc bản địa”. Có thể thấy, đó là những cách thức học tập hiệu quả đã giúp cho đội ngũ cán bộ công tác ở các đồn Biên phòng dọc tuyến biên giới A Lưới có thể nghe, hiểu và trao đổi cơ bản được bằng tiếng của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn mình phụ trách, cũng như tiếng của đồng bào các dân tộc Lào địa bàn đối diện vốn có mối quan hệ bà con thân thiết với đồng bào các dân tộc ở A Lưới. Đặc biệt, hiện nay, có rất nhiều đồng chí nói và phiên dịch được tiếng Lào.
Trung úy Nguyễn Tống Thanh Tú, Trợ lý Phòng Trinh sát bộc bạch: “Nhờ được tham gia lớp học tiếng dân tộc đã giúp chúng tôi thuận lợi hơn rất nhiều trong việc tiếp xúc, gần gũi với đồng bào và hiểu, nắm bắt được nội dung khi họ “phát sóng ngắn” (nói chuyện với nhau) bằng ngôn ngữ của đồng bào”.
Trước đó, ngày 25-8-2015, Bộ Tư lệnh BĐBP đã có Kế hoạch số 2925/KH-BTL về việc xây dựng Đề án “Liên kết với chính quyền địa phương mở lớp học tiếng dân tộc cho cán bộ, chiến sĩ BĐBP đang công tác vùng dân tộc thiểu số ở khu vực biên giới”. Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh đã phối hợp với Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên thuộc huyện A Lưới tổ chức mở lớp dạy tiếng dân tộc thiểu số cho cán bộ các đồn Biên phòng. Theo đó, trung tâm đã cử giáo viên trực tiếp đến phối hợp cùng với các đồng chí giáo viên của đơn vị tổ chức giảng dạy; tổ chức thi sát hạch, cấp chứng chỉ cho học viên Biên phòng. Qua tổng hợp của cơ quan chính trị BĐBP tỉnh, từ năm 2013 đến nay, BĐBP Thừa Thiên Huế đã tổ chức được 7 lớp học tiếng dân tộc Tà Ôi, Pa Cô cho 187 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp của các đơn vị Biên phòng. Qua kiểm tra cuối các khóa, các lớp học đều đảm bảo hoàn thành nội dung, chương trình học tập, đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, 100% học viên đạt loại khá và giỏi. Với kết quả từ các lớp học đó đã góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng và bảo vệ biên giới của BĐBP tỉnh.
Trao đổi về những kinh nghiệm trong việc tổ chức mở lớp, cũng như việc đổi mới phương pháp, hình thức giảng dạy, Thượng tá Phạm Tùng Lâm, Phó Chính ủy BĐBP tỉnh chia sẻ: “Trong những năm tới, để triển khai thành công Đề án 771 của Chính phủ về “Bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2018-2025”, BĐBP tỉnh sẽ tiếp tục phát huy kinh nghiệm, kết quả đã đạt được, mở thêm nhiều lớp dạy tiếng dân tộc thiểu số cho các đồng chí chưa được học. Tuy nhiên, các lớp học cũng cần nghiên cứu triển khai đa dạng hóa thêm các hình thức học tập; tăng cường khai thác ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, trình chiếu nội dung bài giảng tạo trực quan sinh động, dễ tiếp thu hơn. Đặc biệt là cần nghiên cứu xây dựng hệ thống bộ chữ viết để ghi lại cách phát âm, cấu tạo âm – vần của từng dân tộc và biên soạn thành tài liệu nghiên cứu, học tập lâu dài. Bên cạnh đó, người học phải tăng cường tiếp xúc, trao đổi thường xuyên hơn với đồng bào dân tộc thiểu số; theo dõi, cập nhật thêm các thông tin được phát sóng trên các chương trình truyền hình, truyền thanh bằng tiếng dân tộc thiểu số”.
Mai Trí
Tài Liệu Học Tiếng Dân Tộc Thái
Trung tâm bồi dượng thường xuyên Huyện Con CuôngBài dạy tiếng thái Giáo Viên: Vi Thị HuệTháng 6 Năm 2014Bài mở đầu:Mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết của việc học nói tiếng dân tộc TháiI . Mục đích– Học để hiểu và nói được một số từ cơ bản, một số câu cần thiết về tiếng dân tộc Thái, để hạn chế bớt sự bất đồng về ngôn ngữ, khi trực tiếp công tác tại các huyện miền núi Nghệ An.– Tạo thuận lợi trong việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng về kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội đối với cán bộ miền xuôi công tác ở các vùng dân tộc thiểu sốII . ý nghĩa và sự cần thiết Biết nói tiếng dân tộc Thái sẽ giải quyết được một số khó khăn ( đặc biệt là sự bất đồng về tiếng nói). Khi tiếp xúc với các dân tộc ít người ta có thể dùng tiếng Thái để giao tiếp với họ. Vì tất cả các dân tộc ít người ở trên địa bàn miền núi Nghệ An ( trừ dân tộc Thổ), đều biết nói tiếng Thái. Do đó biết nói tiếng dân tộc Thái có ý nghĩa thiết thực đối với cán bộ miền xuôi trực tiếp công tác ở địa bàn miền núi. III . Vài nét khái lược về dân tộc Thái ở tỉnh Nghệ An1/ Về nguồn gốc Theo các cụ già trăm tuổi trước đây kể lại, dân tộc Thái Nghệ An có nguồn gốc thuộc các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Qua quá trình phát triển của lịch sử, một bộ phận đã di cư sang các tỉnh Bắc Lào, rồi từ Lào họ xuôi theo các dòng sông di cư sang Nghệ An . Tuyến đường 7, theo sông Nậm Mộ, Nậm Nơn, sông Lam họ cư trú rải rác dọc sông và tập trung đông nhất là vùng Mường Quạ ( nay là Môn Sơn, huyện Con Cuông). Tuyến đường 48, họ di cư dọc theo sông Hiếu và định cư tập trung đông nhất là vùng Mường Nọc Quế Phong và Khủn Tinh Quỳ Hợp.2/ Về thành phần Dân tộc Thái ở Nghệ An có ba nhóm người: Nhóm Mán Thanh, nhóm Hàng Tổng và nhóm Tày Mười. Phần lớn họ sống ở sáu huyện miền núi, phần ít hơn sống ở các huyện Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn và Quỳnh Lưu. 3/ Về tiếng nói – Tiếng Thái cũng giống như tiếng Phổ thông, từng nhóm người, từng vùng âm lượng nói nặng nhẹ có khác nhau nhưng không ảnh hưởng đến việc giao tiếp với nhau. Thí dụ: Thái đường 48 có đôi chỗ nói khác Thái đường 7: Pay ( đi) +Thái 48: Po hoặc pa +Thái 7 : Pay hoặc pàHiện nay, tiếng Thái có rất nhiều từ vay mượn tiếng Việt, đặc biệt là số từ thuộc các lĩnh vực chính trị, kinh tế hoặc các từ nói về các phương tiện hiện đại… – Tiếng Thái cũng có bộ chữ riêng dùng để ghi. Phần này, biên soạn để dạy nói theo lối phiên âm – hội thoạiBài 1Cách gọi tên và quan hệ gia đìnhI . Vài nét cơ bản trong quan hệ gia đình người thái. Hiện nay ở miền núi vùng cao, dântộc Thái nói riêng và các dân tộc thiểu số khác nói chung đang giữ được nhiều nét sinh hoạt mang tính chất truyền thống. đến với họ chúng ta không thể tránh khỏi sự ngỡ ngàng buổi ban đầu. Sinh hoạt dễ thấy nhất là bữa cơm hàng ngày của gia đình họ. Một gia đình chỉ có bốn đến năm người mà họ cũng dọn thành hai mâm. Thường là đàn ông ngồi mâm đặt gian ngoài còn đàn bà, con gái ngồi mâm đặt gian trong. Vì sao vậy? Để cắt nghĩa vấn đề này, chúng tôi giới thiệu vắn tắt một số mối quan hệ mang tính chất huyết thống trong gia đình người thái như sau.1/ Quan hệ giữa cô dâu với những người trong gia đình.a/ Cô dâu với những người nam giới bậc trên chồng. ở trong nhà, trong nội tộc, họ kính nể nhau. Trong sinh hoạt hàng ngày, họ rất có ý thức để tránh sự va chạm lẫn nhau. Vì thế, trong những bữa cơm hàng ngày, cô dâu không ngồi ăn cùng mâm với bố chồng, anh chồng hoặc chú bác trong nhà, trong nội tộc. Nếu uống rượu cần thì cô dâu cũng không được cầm cần uống cùng một loạt với bố chồng hoặc anh chồng. Phòng ở của cô dâu, bố chồng hoặc anh chồng tuyệt đối không được đặt chân vào ( mặc dù có đông người) và ngược lại cô dâu cũng vậy. b/ chàng rể đối với nữ giới bậc trên vợ trong nhà. Cũng tương tự như cô dâu đối với bố chồng, anh chồng. Bữa cơm chàng rể cũng không được phép ngồi ăn chung mâm vối mẹ và chị của vợ. Những mối quan hệ trên như những quy định nghiêm ngặt thậm chí trở thành vấn đề kiêng kị trong sinh hoạt gia đình. Vì thế, trong gia đình người Thái, khi có dâu, có rể trong nhà, mặc dù ít người, khi ăn cơm, họ vẫn phải dọn ăn thành hai mâm. Gian ngoài dành cho mâm đàn ông còn gian nhà trong dành cho mâm phụ nữ. gia đình nào sinh hoạt tuỳ tiện sẽ bị bà con, xóm giềng lên án ngay.Một số phong tục trong cưới hỏi:Từ xưa đến nay người Thái đón dâu về lúc 1 giờ sáng. Khi đưa dâu lên cầu thang Bố mẹ chồng làm lễ rửa chân cho cô dâu và chú rể mới được bước chân lên cầu thang.Khi gả con gái về nhà chồng chú rể có món quà tặng mẹ vợ là một vòng tay. Chiếc vòng tay này mang ý nghĩa là vòng sữa mẹ.Bài đọc:Lan nọi tên họng ê Khang, cha pay học ma, lan tham mệ:
Ủi ơi ( Mệ ơi) ài chông pay ê tủa, cờ lơ?Cháu nhỏ tên là Khang, mới đi học về, cháu hỏi mẹ:
– Mự ngoa : Hôm qua – Mự nị : Hôm nay – Mự nớ : Ngày mai – Mự hừ : Ngày mốt – Bươn cón : Tháng trước – Bươn nị : Tháng này – Bươn lăng : Tháng sau – Pi cai : Năm qua – Pi nị : Năm nay – Pi ná : Năm sauĐọc và thuộc các từ ngữ sau– Hâng mự : Lâu ngày– Nhàm chậu : Buổi sáng– Nhàm xai( nghền) : Buổi trưa– Nhàm cải : Buổi chiều– Nhàm khắm : Buổi tối– Nhàm khừn : Ban đêmBÀI 4MỘT SỐ TỪ NGỮ VÀ CÂU DÙNG ĐỂ HỎICung cấp và tập cho học viên nói đúng các từ ngữ và câu dùng để hỏi. Qua đó hướng dẫn học viên sử dụng phù hợp với nội dung, ngữ cách mình muốn hỏi.I. TỪ NGỮ VÀ CÂU MẪU1/ Từ ngữ– Phơ?( pửa?) : Ai?– ăn lơ ( ăn tủa?) : Cái gì?– Ệt ăn lơ? ( ề ăn tủa?) : Làm cái gì?– Chơ lơ? : Khi nào, lúc nào, bao giờ?– Pay (po, pa, pơ) : Đi– Pay cơ lơ? : Đi đâu?– Pay cơ lơ ma? : Đi đâu về?– Kín ( ki) : Ăn– Kín ăn lơ lẹ? : Ăn cái gì thế? – Kín khầu páy? : Ăn cơm chưa?– Kín khầu chậu páy?: Ăn cơm sáng chưa?– Kín ngai páy? : Ăn trưa chưa?– Kín lanh páy? : Ăn tối chưa?2/ Mẫu câua/ Noọng:- Ái páy cơ lơ ma ? Ái : – Ái páy ệt việc ma.b/ Noọng:- Ái ệt việc du cơ quan lơ ? Ái : – Ái ệt việc du Huyện ủy Anh Sơn.c/ Noọng: – Hườn ái mi kì côn? Ái : – Hườn ái mi xí côn.d/ Ái : – Noọng kin khầu páy? Noọng: – Noọng kin khầu lẹo ( Noọng páy kin).II. LUYỆN TẬP THỰC HÀNH.1/ Dùng từ ngữ trong bài và từ ngữ đã học thay vào câu mẫu, tập nói theo nhóm.2/ Hội thoại theo đoạn văn.a/ Đoạn 1.– Lan : Nhằng khoe bỏ lung? – Lung: Nhằng khoe, lan khoe bỏ?– Lan : Chả ơn lung, lan nhằng khoe.– Lung: Lan du cơ lơ ma?– Lan : Lan du huyện ma.Lung: Mà mi việc lơ bỏ?– Lan : Khọi! Lan mà ệt việc năm chầu bàn.b/ Đoạn 2.– Noọng: ời sinh đầy kì lan lẹo?– ới : Chả ơn noọng tham khào,ời sinh đầy xoong lan. Lản nhinh nựng, chài nựng.– Noọng: Lan cốc đầy kí pỉ?– ới : Lan cốc đầy xíp xoong pỉ.– Noọng: Lan hiền kềnh bỏ ời?– Ới : Ợ, cờ nhằng mi bun, pi lơ cà đày hườn trường nhọng 3/ Dịch đoạn văn.a/ Đoạn 1.– Cháu: Có khỏe không bác?– Bác : Khỏe, cháu khỏe không?– Cháu: Cảm ơn bác, cháu cũng khỏe.– Bác : Cháu từ đâu đến?– Cháu: Cháu ở huyện đến.– Bác : Đến có việc gì không?– Cháu: Dạ! Cháu đến làm việc với trưởng bản.b/ Đoạn văn 2.– Em : Chị sinh được mấy cháu rồi?Chị : Cảm ơn em hỏi thăm, chị sinh được hai cháu, một gái, một trai.Em : Cháu đầu được mấy tuổi?– Chị : Cháu đầu được mười hai tuổi.– Em : Cháu học giỏi không chị? – Chị : Vâng cũng đang có phúc, năm nào cũng được nhà trường phát giấy khen.IV. HƯỚNG DẪN HỌC Ở NHÀ1/ Học thuộc từ ngữ trong bài.2/ Tự đặt 10 câu hỏi và tự trả lời đúng nội dung các câu hỏi đó bằng tiếng Thái.3/ Tập đọc các số từ 41 đến 50.BÀI 5MỘT SỐ TỪ NGỮ VỀ ĂN UỐNG, SINH HOẠT I. VÀI NÉT SƠ LƯỢC VỀ NẾP SỐNG VÀ ĂN UỐNG CỦA DÂN TỘC THÁI1/ Thói quen truyền thống. Săn bắt thú rừng là một trong những cách kiếm sống của đồng bào các dân tộc ở miền núi. Hiện nay, cách kiếm sống cổ truyền vẫn tồn tại ở một số ít gia đình thuộc vùng sâu của các huyện, xã vùng cao. Mỗi khi săn bắt được thú rừng to, họ thường tổ chức liên hoan khao làng. Trong bữa liên hoan đó, gia đình thợ săn thường chỉ nấu thức ăn và chuẩn bị đồ uống rượu. 2/ Việc ăn uống thường ngày.Bữa cơm thường ngày của người dân rẻo cao thường rất đơn giản. Họ dùng xôi nếp chấm với chẻo. Chẻo có thể dùng tôm, cua, cá, thịt nướng đâm nhỏ trộn với gừng, sả hoặc các gia vị khác. Trong mâm, họ thường đặt một bát chẻo để cả mâm dùng chung. Khi dùng xôi chấm, họ thường dùng tay vắt. Mỗi lần chấm xuống bát chẻo, họ thường bẻ từ vắt xôi to ra từng miếng nhỏ để chấm. Chấm miếng nào dùng luôn miếng đó. Họ rất kiêng dùng vắt xôi to chấm xuống bát chẻo. Vì mỗi lần như vậy chỉ dùng được một miếng, sau đó lại chấm xuống bát chẻo dùng chung sẽ không giữ được vệ sinh. Đến với miền núi nói chung, với dân tộc Thái nói riêng ta cần biết cách sinh hoạt này để nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống người dân rẻo cao.II. TỪ NGỮ VÀ CÂU MẪU1/ Từ ngữ– Kín : Ăn, uống– Kín khầu : Ăn cơm– Kín nặm : Uống nước– Kín lầu : Uống rượu– Kín đoong : Ăn cưới– Kín pự(hạt) : Ăn tràu-Kín da( đụp da) :Hút thuốcMuốn: Vui.Mau làu: Say rựouChẹp : NgonChẹp tẹ:ngon thậtÍm : no– Ím lẹo :no rồi– Xẹp toọng: đói bụng– Dạc kín :Muốn ăn– Bỏ kín : Không ăn– Hờ : cho– Bỏ hờ : Không cho2/ Câu mẫu– Mời ởi kín khầu năm noọng.– Noọng ơi hờ ởi kín khầu năm.– Lung ơi hờ lan xo tố hườn năm.Lan xo phép pay non.Pà ơi ! Lan xẹp toọng hờ lan xo kín khầu năm.Lan xo lội, lan bỏ kín đày lầu.Lan mơi lung kín năm lan chèn lầu nịIII. LUYỆN TẬP1/ Tập nói theo câu mẫu Học viên dùng từ trong bài hoặc vốn từ đó thay vào câu mẫu để tập nói cả nhóm.2/ Tập nói và dịch các câu sau:– Noọng mời Ởi kín khầu.– Lan mời pỏ, lung kín nặm.– Ài, ời hờ noọng kín khầu năm.– Pỏ ệt ngài páy? – Pỏ ệt ngài lẹo– Pỏ nhằng páy ệtPỏ kín khầu páy?– Pỏ kín khầu lẹo– Pỏ nhằng páy kínIV. HƯỚNG DẪN HỌC Ở NHÀ1/ Tập nói và thuộc từ, câu trong bài2/ Tập đếm các số từ 51 đến 60BÀI 6MỘT SỐ ĐỒ DÙNG VÀ DỤNG CỤ GIA ĐÌNHI/ GIỚI THIỆU VÀI NÉT VỀ DỤNG CỤ TRONG GIA ĐÌNH Dân tộc Thái nói riêng và một số dân tộc ít người nói chung thường sinh hoạt trong ngôi nhà sàn. Ngôi nhà ấy ít nhất cũng có ba gian. Gian bắc cầu thang chính gọi là gian ngoài, phía đặt bàn thờ gọi là phía trên. Cách sắp xếp nơi ở và đồ dùng trong nhà như sau:– Đối với các đồ dùng sinh hoạt: Họ thường để gian trong cùng. Gian ngoài thường chỉ đặt bàn ghế, ấm chén để tiếp khách. Mọi người trong nhà ít phơi đồ ở gian ngoài đặc biệt là đồ phụ nữ.– Đối với đồ dụng cụ lao động họ thường tập trung một góc dưới sàn nhà như cày, cuốc, cối giã gạo, riêng dao, liềm, hái họ thường để trên nhà nhưng chỉ để ở gian trong bên trong ( phía dưới) . Tuyệt đối họ không dắt dao lên phên vách ở gian ngoài và phía trên của gian ngoài ( gian thờ). II. TỪ NGỮ VÀ CÂU MẪU1/ Từ ngữa/ Một số đồ dùng trong gia đình:– Pàn : Mâm– Thụ : đũa– Thuối : bát– Le : đĩaMó : nồiChong ( Buồng) : MôiPạ : daoXốc : XẻngXiêm : Xuổng– Biếng:Niếng hông xôi– Phà : chăn– phục : chiếu– Pời : màn– Mon : gối– Xứa : đệm– Xồng xừa: quần áo– Bua chộc : cối– Xạc : chàyb/ Một số dụng cụ lao động– Pạ : dao– Mịt lem : dao nhọn– Mịt bang : dao thái mỏng– Kiều : liềm– Pạ bạch : dao phát– Thay : cày2/ Câu mẫu– Pỏ ơi hớ lục dưm( mạn) mó tồm khầu năm. – Pỏ ơi hớ lục xo cưa năm.Lung pay cơ lơ ma.Lung pay ê na ma.Lung ê ăn tủa?Lung ê xuôn phắcNọong mi ề xồng xừa đi tẹ nọIII. LUYỆN TẬP 1/ Tập nói theo câu mẫu.2/ Tập nói theo đoạn văn:– Tiếng Thái Khòi pay dam lăng hườn côn Thái nựng. Lăng hươn hạn xam hòong du hua bàn. Cuông lăng hươn mốt mảy. Coong lua( phừn) xớ cuốc, thay bảy piềng căn đi ta. Dáng khứn đay, khòi hên xam hoòng hườn mốt mày tẹ. Choong, phục, phà pởi phắp piềng căn. Pà tình nặm, khoan( van), pạ pọm bảy (cứ) miếng âu ngại.
– Tiếng Việt. Tôi đến thăm một ngôi nhà người Thái. Ngôi nhà sàn ba gian ở đầu bản. Dưới sàn nhà sạch sẽ ngăn nắp. Đống củi và cuốc, cày được sắp xếp đẹp mắt. Bước lên cầu thang, tôi thấy ba gian nhà rất sạch sẽ. Giường, chiếu, chăn đều gọn và sạch. Những ống đựng nước, cái rừu, cái dao đều để nơi thuận tiện.IV. HƯỚNG DẪN HỌC Ở NHÀ1/ Học thuộc các từ trong bài.2/ Tập nói theo câu mẫu.3/ Tập đếm các số từ 61 đến 70.BÀI 7HOẠT ĐỘNG CHĂN NUÔII. VÀI NÉT VỀ CHĂN NUÔI Ở MIỀN NÚI Đặc điểm miền núi là đất rộng người thưa, rất thuận lợi trong việc phát triển chăn nuôi. Nguồn thức ăn chủ yếu cho gia súc là các loại cây cỏ, rau lá rừng. Từ trước tới nay, đồng bào Thái cũng như các dân tộc ít người khác đã biết phát huy thế mạnh ấy của rừng. Cách chăn nuôi truyền thống là thả rông. Ngày trâu bò vào rừng ăn, đêm tự về dưới sàn nhà hoặc các bờ bụi xung quanh làng bản. Hiện nay, phần lớn họ chăn nuôi đã có chuồng trại trong vườn.Ngoài trâu bò, họ còn nuôi nhiều lợn, gà. Lợn họ cũng nuôi theo cách thả rông. Họ cho lợn ăn mỗi ngày hai lần chủ yếu là húp cám húp nước. ăn xong, lợn vào rừng kiếm ăn thêm các loại rau, lá rừng. Do cách chăn nuôi như vậy nên họ ít chú ý đến việc phát triển kinh tế vườn. Trước đây ở vùng cao, các loại cây ăn quả và hoa màu rất ít.II. TỪ NGỮ VÀ CÂU MẪU1/ Từ ngữ– tô ( mẻ) : conTô má : con chó– Tô cay : con gà– Tô pết : con vịt– Tô Quai ( Khoai):Con trâu Tô Ngua: Con bòTô meo: Con MèoTô mú: Con LợnTô bè: Con dê– Tô pa : con cá– Tô cùng : con tôm– Tô pu : con cua– Tô chạng : con voi– Tô mạ : con ngựa– Tô nộc : con chimCác con: ngan, ngỗng, thỏ dùng tiếng phổ thôngIII. LUYỆN TẬP2/ Tập nói theo đoạn văn– Tiếng TháiNgua, khoai khoong côn Thái tưng pưng cuông pá nặp bỏ mết. Càu xíp mự chàu hươn chặng khầu pá diềm dam bạt nựng. Xáng hươn mu, cay tưng pưng. Côn H Mông chằng nhằng liệng mạ. Lạ hươn mi xam, xí tô. Mạ mẹn tô xắt liệng bảy chở khầu, chở khướng khoong cồn dụ pu xung.TIẾNG VIỆTTrâu bò của người Thái từng đàn trong rừng đếm không xuệ. Chín mười ngày chủ nhà mới vào rừng thăm nom một lần. Quanh nhà, lợn, gà từng đàn. Người HMông lại còn nuôi ngựa. Mỗi nhà có ba, bốn con. Ngựa là vật nuôi để vận chuyển lúa gạo, đồ đạc của người ở núi cao.IV. HƯỚNG DẪN HỌC Ở NHÀ1/ Học thuộc từ ngữ trong bài và tập nói theo mẫu câu.2/ Tập đếm các số từ 61 đến 703/ Đọc thuộc các từ ngữ sau:– Liệng ngua:Chăn bò– Cưa mu :Cho lợn ăn– Tô xưa :Con hổ– Tô linh :Con khỉ– Tô ngu :Con rắn– Tô quang :Con hươu– Tô táu : Con rùa– Tô mươi: Con gấu– Tô pu :Con cua– Tô cùng:Con tôm– Tô nhung: Con muỗi– Tô nu: Con chuột– Xự chịn :Mua thịt– Chịn tốm: Thịt luộc– Chịn pính: thịt nướngBÀI 8HOẠT ĐỘNG TRỒNG TRỌTI. VÀI NÉT VỀ CÁCH LÀM ĂN TRƯỚC ĐÂY CỦA NGƯỜI THÁI Trước đây, dân tộc Thái ở vùng sâu sống theo lối tự cung, tự cấp là chủ yếu. Họ sống bằng nghề phát rẫy làm nương để trồng lúa, ngô và sắn. Một năm chỉ có một mùa lúa rẫy, trịa vào tháng 4, tháng 5 âm lịch và thu hoạch vào tháng 9, tháng 10 âm lịch. Do rẫy có độ dốc không giữ được màu nên họ dùng trịa lúa có một lần Vụ lúa sang năm lại phát vạt rừng mới để trịa lúa. Chính vì thế rẫy lúa của họ ngày càng xa làng bản. Có những nơi tính từ bản đến rẫy phải đi ròng rã cả ngày. Cách làm ăn này ít nhiều ảnh hưởng đến việc học hành của con cháu. Mùa rẫy đến, thường con cháu phải nghỉ học để coi nhà, giữ em cho bố mẹ đi làm, thậm chí họ ở lại trong rẫy cả tháng mới về. Mùa thu hoạch, họ thường làm kho lúa tại rẫy. Thu hoạch xong, người về bản nghỉ cả, kho lúa không ai canh giữ. Số lúa đó, họ vận chuyển về ăn dần trong năm II. TỪ NGỮ VÀ CÂU MẪU1/ Từ ngữ.a/ Một số từ ngữ nói về cây lương thực– Co khầu: cây lúa– Huồng khầu : bông lúa– Khầu cà :lúa mạ– Khầu nuồi: thócKhầu xan: gạoKhầu chào : CơmKhầu nừng: Xôi
2/ B – C – ChBun – Mi bun : Phúc – Có phúcBánh nị ( Kháo nị) : Dạo nàyBàn – Bàn hau: Làng bản – Làng taBịp : BópBơ mạy : Lá câyBuông : ThìaBiếng : Niếng hông xôiBua chộc : CốiCu (Căn) : TôiCưa : MuốiCúng – Tô cúng : Tôm – Con tômCáng : VơiCo – Co mạy : Cây – Cây gỗCọt : ÔmCọt xao : Ôm gáiCọt báo : Ôm traiChiện ( Chồn) : KểChụp – Chụp kèm : Hôn – Hôn máChuồn – Chuồn pay : Rủ – Rủ điChẹp : ngonChọp : VừaChừm : Bẩn3/ D – Đ – HDạc : Muốn ( Khát)Dam : ThămDưm : MượnDên : NguộiDăm : Dấu ( Dấu kín trong lòng)Dưn : ĐứngĐày : ĐượcĐăm : ĐenĐanh : ĐỏĐôm : NgửiHên : ThấyD – Đ – HHom : ThơmHụ : BiếtHặc : YêuHờ : ChoHa – Ma ha: Nhờ – Đến nhờHằm : Cám4/ KH – K – LKham – Kham kín: Tham – Tham ăn.Khêm : KimKhòi : TôiKhọi : dạKhanh : CứngKhành căn : Thi nhauKhoàm vậu : lời nóiKhong: Ồn àoKhoong : Của cảiKhương : Rương Khướng : Sung sướng
Khoằn : KhóiKin : Ăn, uốngKèm : MáKềm : MặnLục – Lục non : Dạy Ngủ dậyLực : conLực xao : Con gáiLực Chai : Con Trai5/ N – M – Ng-Nọoc : Ngoài– Nọong : Em– Nặm : Nước– Mạc : Quả– Mạc mạy: Các loại quảMo hạc mạy : Thầy thuốcMên : Hôi , thốiMon : GốiMá – Tô Má: Chó – Con chóMu – Tô mú : Lợn – Con lợnM- NgMoi : XemMừa : vềMì : cóMẹn- Bọ mẹn : Đúng – Không đúngMa- ma nì : Lại – lại đâyMa – Pay cơ lơ ma : Về – Đi đâu vềMạn : MượnNgam : Đẹp-Ngoạ: Dại, DốtNgặm : Nghĩ, Suy nghĩNghên: Ban ngày, Buổi trưa6/ NH – O – PNhạo : DàiNhăng : CònNhà, Nhà pay : Đừng, đừng điNhàm : Chỉ thời gianNHàm chậu: Buổi sáng Nhàm xai : Buổi trưaNhàm Khằm : Buổi tốiNhàm khừn : Buổi đêmỎn, phắc ỏn : Non, rau nonọc, ọc nọoc : Ra, ra ngoàiPay, pay ín: đi, đi chơiPay ạp : đi tắmPay non: đi ngủ Pay ệt việc : đi làm việcPay mưa hươn: Đi về nhàPay kín làu: Đi uống rượuPay kin khàu chậu : Đi ăn sángPay kin đoong: Đi ăn cướiPanh : sửaPăn : ChiaPa, tô pá : cá, con cáPắt : BắtPu, tô pu : Cua, con cua8/ PH – T – THPhơ ( Pửa) : aiPhợ ( xền) Giật thộtPhạo : vộiPhọn : múa,nhảy múaPhăn, non phăn: Mơ, Nằm mơPhằn, phằn lua : Chặt, chặt củiPhằng : nghePhăng : ChônPhày ( Phi ) : LửaTợp, ( ỔM): ToTốm, tốm chỉn: Nấu , Luộc thịtTêm: ĐầyTăm, tăm xe: Đâm, đâm xeTắm : đáTằm : ThấpTứn, nặm tứn : cạn, nước cạnTa : mắtTá: BếnTặp, xe tặp :Đằn, xe đằnTy, Tành căn : Đánh, đánh nhauTộp : tátTừm : thêmThấu nộm: Giá rồiTham, Tham tàng : Hỏi, hỏi đườngThằn, pay thằn: Kịp, đi kịpTít căn : dính nhâuU – V – XÚm, úm lan : Bồng, bồng cháuÙn, nặm ùn : Ấm, nước ấmUi ( mệ ) : MẹVạu ( Vá) : NóiXo, xo phày : xin, xin lửaXa lồm: Nói chuyệnHỎI – ĐÁPAì( ời) mẹn tên tụa?Khòi mẹ tên….Pỉ nị ài tỏ lơ tuổi?Pỉ nị khòi ……tuổiÀi ê việc dú cơ quan lơ?Khòi ê việc dú cơ quan….Ài mi mia pảy?Khòi mi mia lẻo Mia ngai họng ê tên tủa?Mia khòi họng ê tên ….Tay hươn ngai mi kì côn ?Tay hươn khòi mi …..cônPhua mia ngai mi kì côn lực?Phua mia khòi mi …. Côn lựcLực ngai mi nhinh, mi chai pảy?Chá ơn ngai, phua mia khoi mi lực nhinh nựng tằng lực chai nựng(….)Cuông mời chồng mạc mạy ngai mặc mắc lơ ?Cuông mời chồng mạc mạy khòi mặc mác pục, mác cuồi…Kết thúc khoá họcXin kính chào và hẹn gặp lại
Cập nhật thông tin chi tiết về Chàng Trai Đồng Bào Dân Tộc Thái Nghệ An Lọt Vào Chung Kết Sao Mai 2022 trên website Theolympiashools.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!